Cho tới nay chúng ta đã nói về những điều căn bản có thể giúp ta chuyển hóa tâm, về sự cần thiết huân tập tâm thức. Ðiểm thiết yếu nhất là ta cần phát triển Bồ đề tâm, ý hướng vị tha muốn đạt tới giác ngộ để độ chúng sanh. Ðiểm này được phát khởi nhờ huân tập hai ước nguyện giúp người và đạt đạo.
Chúng ta được dạy nên áp dụng việc thực tập này trong đời sống hàng ngày, trong mọi hành xử và áp dụng cho cả ba nghiệp thân, khẩu và ý. Về khẩu ta nên đọc các kinh văn như: "Tám bài kệ về chuyển hóa tâm" ở đầu trang này như những lời nhắc nhở thường trực về sự quan trọng của quán tưởng.
Ta hãy xét vị trí của việc tu tập Bồ đề tâm trong toàn bộ Phật giáo Tây Tạng. Ðạo Bụt Tây Tạng có thể coi là hệ thống Phật giáo đầy dủ nhất vì nó chứa đựng đủ các tông phái, kể cả Kim Cang thừa1.
Tứ Diệu Ðế, giáo pháp cốt tủy của các tông phái không thuộc Ðại thừa, cũng thực sự là nền tảng của đạo Bụt. Cùng với sự tập huấn của đạo đức, Tứ Diệu Ðế được dùng như nền tảng của sự tu tập, thực hành Bồ Ðề tâm.
Phát triển Bồ Ðề tâm là con đường chánh và là căn bản của Phật pháp. Khi bắt đầu phát khởi Bồ Ðề tâm rồi, hành giả nổ lực áp dụng nguyên lý vị tha trong suốt cuộc đời họ. Từ đó đi tới lý tưởng Bồ Tát, gồm sáu phép tu đại hạnh hay Lục độ Ba la mật 2: đại hạnh Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Ðịnh, Trí Tuệ Ba la mật. Trong sáu phép tu này, có lẽ hai loại cuối cùng quan trọng nhất trong Kim cang thừa vì nó gồm hai yếu tố đại định và giác ngộ.
Ta có thể nói Kim cang thừa giảng dạy nhiều pháp môn tinh tế để kiện toàn sự định tâm và phát triển tuệ giác. Pháp môn cao nhất trong Phật giáo Tây Tạng được giảng giải trong cuốn "Du Già Mật Tông cao cấp" (Highest Yoga Tantra-Anuttarayoga tantra), đề cập tới những tầng lớp vi tế của các Thức.
Ðây là điểm tôi muốn nhấn mạnh: hành xử từ bi chính là trái tim của toàn thể đạo Phật. Các phép tu khác đều hoặc đơn sơ quá, hoặc chỉ là nền tảng hay ứng dụng của pháp môn căn bản này.
Tôi cũng có thể nói rằng tất cả các tông phái Phật giáo đều nhất trí như vậy, kể cả các tông phái Ðại thừa hay không Ðại thừa. Từ bi là nguồn cội của Phật pháp, nhưng chỉ trong lý tưởng Bồ Tát, chúng ta mới nhấn mạnh vào chuyện phát triển tâm từ bi bằng cách nuôi dưỡng Bồ đề tâm.
TÁM BÀI KỆ CHUYỂN HÓA TÂM
1.- Với quyết tâm thành tựu ước vọng cao quý
Mang lợi lạc tới cho chúng sanh
Quý giá hơn bảo châu như ý
Tôi xin trân quý lý tưởng này không ngừng nghỉ.
Bốn câu đầu nói về Tôi, cái ngã mà chúng ta đã nói sơ ở chương I. Nay chúng ta đi sâu hơn một chút. Sự phân tích về bản chất và sự hiện hữu của cái Tôi rất quan trọng để hiểu Phật pháp. Chúng ta có thể nói có hai phe chính về vấn đề này trong Phật pháp.
Một gồm những tông phái tuy chối bỏ sự hiện hữu của một cái ngã, một linh hồn bất tử, nhưng họ lý luận rằng cái Tôi, cái ngã hay con người phải được nhận diện qua các uẩn 3 thân và tâm của cá nhân đó. Chẳng hạn như có nhóm quan niệm con người là tổng hợp của ngũ uẩn. Một vài nhóm lại cho rằng các tâm thức mới là con người, là cái ngã thực sự.
Ðạo sư Ấn độ Bhavaviveka chẳng hạn, sau khi phân tách rốt ráo, đi tới sự nhận diện một con người bằng sáu tâm thức3a của họ. Tuy nhiên, có trường phái khác như tông Duy Thức không hài lòng với lối nhận định này. Họ công nhân một thức khác gọi là Thức căn bản A lại da3a là tâm thức bất biến, luôn luôn hiện diện và liên tục. Thức này trung tín, hoạt động như một cái kho chứa đủ các khuynh hướng trong dòng sông tâm tưởng của ta.
Nhóm Phật giáo trên muốn coi cái ngã như một đối tượng tâm thân phức tạp. Vì sao trong đó, phái Duy Thức lại thấy cần thừa nhận cái thức căn bản ngoài sáu thức kia? Ðó là vì họ đã thấy trong nhiều trường hợp - nhất là nơi các thiền giả đã nhập định Tánh Không một cách hoàn hảo, khi các thức không còn bị vẩn đục chút nào nữa - mà họ vẫn không thể đạt tới đại ngộ, như vậy nghĩa là những tâm hành ô nhiễm và các dấu vết của chúng vẫn còn tiềm ẩn trong một chỗ nào đó.
Vậy nên họ thấy cần phải thừa nhận một cái thức riêng biệt, có bản chất trung tín, gọi là tàng thức A Lại Da.
Nhóm thứ hai có phái Trung Quán (Qui Mậu Luận Chứng)4. Họ chối bỏ sự cần thiết phải công nhận một cái ngã có tự tánh hiện hữu thường hằng. Họ lý luận rằng chúng ta không thể công nhận ngã hay pháp (things) như những thực tại độc lập.
Ta phải hiểu cái ngã của con người là một tập hợp phức tạp của thân tâm, của những gì bắt nguồn từ đó nhưng nó không hiện hữu độc lập, không có tự tánh thường hằng.
Từ quan điểm thứ hai sâu xa hơn đó, ta có thể nói ngã là cái tên chỉ những uẩn phức tạp của thân và tâm.
Nhóm Trung Quán duy trì quan điểm "Ta không thể nào tìm được cái gì có thể gọi là ngã chân thật, dù cho ta có tìm tòi trong những hiện hữu hiển nhiên của thân và thức". Họ trình bày về ngã qua quan niệm phân tích bảy điểm5 và cuối cùng nhận định rằng "Tuy ta không thể tìm thấy cái ngã khi phân tích thân thể và tâm tư, nhưng ta không nên kết luận cái ngã đó không hiện hữu chút nào, mà nó có hiện hữu trong một vai trò nào đó".
Một trong những hàm ý ta rút ra từ triết thuyết trên là đừng quá phân tích hay áp đặt một chân lý siêu hình vào cái ngã. Thay vào đó, chúng ta hãy chấp nhận thực tướng của cái ngã như là một quy ước chung, không cần nghiên cứu về nó.
Vậy khi bạn bắt đầu chấp nhận cái ngã thực tế trong quy ước và ngôn ngữ thông dụng, bạn sẽ nhận ra là không ai có thể gán cho ngã cái thực thể thường hằng được. Và xa hơn nữa, bạn sẽ thực sự hiểu cái ngã không có tự tánh độc lập hay hiện hữu vĩnh cửu. Con người không hiện hữu tự họ mà chỉ hiện diện trong bối cảnh ngôn từ và trong sự hiểu biết phổ thông sinh động của thế giới. Phân tích này là phương tiện rất thiện xảo để có tuệ giác về sự trống rỗng trong Tánh Không của con người.
Phái Trung Quán quan niệm con người không phải là một hiện thực nhưng là một thực thể trong tên gọi, trong nhận thức. Quan điểm này hơi khác với các trường phái cho rằng tính chất của ngã chỉ có tính cách trừu tượng, ngoài cái tên và ý niệm về ngã.
Ta cần phải hiểu cho rõ ràng, không bị rối trí trong chuyện này dù trong các tông phái, có khi họ dùng cùng một từ ngữ nhưng ý nghĩa có thể khác nhau tùy theo bối cảnh và thời gian mà các triết gia bình giải.
Thực thế, chẳng hạn như chữ bản chất thực tại Svabhava6, có khi các triết gia Trung Quán cũng dùng, nhưng họ vẫn không công nhận có gì hiện hữu vĩnh cửu. Ta phải có nhận xét tinh tế về cách dùng các từ ngữ của họ.
Vậy, khi ta nói tới cái Tôi trong tám bài kệ, chúng ta đừng cho đó là một có ngã có thật, một hiện hữu chắc chắn. Ta nên luôn nhớ đó chỉ là một con người theo quy ước mà thôi.
Trong đoạn kệ này, bạn mong được tôn quý mọi người khác, đặt họ lên trên bạn, vì nhờ họ bạn có thể hoàn thành mục tiêu cao cả: mang lợi ích tới cho chúng sanh. Mục tiêu này còn đáng quý hơn viên ngọc như ý7 vì dù ngọc đó quý giá tới đâu, nó cũng không thể mang được cho bạn sự đạt ngộ về tâm linh.
Ðoạn này cũng nói tới lòng nhân hậu của các chúng sanh mà chúng ta đã đề cập ở phần trên. Ðối với một hành giả tu theo Ðại thừa thì chính nhờ chúng sanh, bạn có thể phát triển lòng từ bi vô lượng, đạt tới trình độ tâm linh cao nhất, và cũng nhờ chúng sanh bạn có cơ hội phát triển Bồ đề tâm, khuynh hướng vị tha.
Do đó, bạn phải căn cứ vào những liên hệ, vào phản ứng hổ tương với người khác để đạt tới sự thành tựu đạo nghiệp cao cả. Trong quan điểm đó, lòng nhân hậu, tử tế của chúng sanh thật là vĩ đại.
Chúng ta có thể tìm thấy nguyên tắc tương tự trong các phép hành trì khác như "Ba phép huấn luyện cao đẳng"8 về đạo đức, thiền định và tuệ giác. Vai trò của người khác rất quan trọng trong ba loại huấn tập này, ngay từ bước khởi đầu.
Hãy coi trong sự luyện tập cao cấp về đạo đức mà căn bản là giới luật. Trong đó có những giới luật cấm làm hại người khác, cấm làm mười điều bất thiện. Ðiều thứ nhất là cấm sát sanh, nó có liên quan trực tiếp tới giá trị của người khác.
Hơn nữa, trong Phật giáo, một số những điều tốt đẹp mà chúng ta thường mong ước được hưởng như sống thọ, xinh đẹp, đầy đủ và giàu sang... là kết quả của những nghiệp dĩ tạo ra do liên hệ giữa ta với người. Thí dụ như sống thọ là do ta giữ giới không sát sanh; xinh đẹp là ta đã có kiên nhẫn với người khác; đầy đủ sung túc là ta đã rộng rãi với mọi người từ kiếp trước v.v... Vậy thì, ngay cả các lợi lạc thế tục, chúng cũng là kết quả của sự tương quan giữa ta với tha nhân.
Khi nói về ý tưởng tôn quý người khác, điều quan trọng ta cần hiểu đó không phải là lòng thương hại đôi khi khởi lên trong ta, đối với những người không may mắn bằng mình. Khi thương hại, ta có khuynh hướng nhìn xuống đối tượng của lòng thương và ta có cảm tưởng mình hơn người. Trân quý mọi người ngược lại với quan niệm đó.
Trong phép tu tập này, ta nhận biết lòng nhân từ của người khác và hiểu ta không thể thiếu họ nếu muốn tinh tấn tu hành. Ta sẽ hiểu và biết trân quý sự hiện diện quan trọng đầy ý nghĩa của họ, và tự nhiên ta sẽ thấy họ ở một vị thế cao hơn mình. Vì nghĩ như thế về tha nhân chúng ta có thể coi họ như người thân đáng được chúng ta kính quý. Do đó, có những câu kệ sau đây:
2.-Khi nào tiếp xúc với mọi người
Tôi xin được coi mình thấp kém hơn tất cả
Và tự thâm tâm
Tôi xin kính quý hết mọi tha nhân.
Bài kệ này đề nghị cho ta thái độ tử tế mà tôi mới giảng xong. Ý tưởng coi ta kém người khác không nên dẫn tới chuyện tự coi thường mình, bỏ quên mọi nhu cầu, cảm xúc của mình, coi mình như không còn chút hy vọng. Trái lại, như tôi đã giảng, thái độ coi mình thấp kém đó bắt nguồn từ tấm lòng can đảm của bạn trong liên hệ với người khác, và từ khả năng có thể giúp ích tha nhân trong bạn. Xin đừng hiểu lầm về chuyện này. Ðiều tôi đề nghị ở đây là sự cần thiết của tánh khiêm cung chân thành.
Tôi xin kể một câu chuyện cho rõ hơn. Có một vị đại sư thuộc phái Dzochen từ vài ba đời trước đây tên là Dza Paltrul Rinpoche. Không những ngài là một vị thầy lớn mà ngài còn có rất đông đệ tử, thường giảng dạy cho hàng ngàn học trò. Ngài cũng là một thiền giả, nên đôi khi biến đi ẩn tu ở một chỗ, khiến cho các đệ tử phải đi tìm kiếm khắp nơi.
Trong một kỳ nghỉ ngơi, ngài đi hành hương và ghé lại nhà một Phật tử vài ngày, giống như các vị tăng Tây Tạng thời đó. Trên đường đi, các tăng sĩ thường xin cư trú trong một gia đình, nhận cơm nước cúng dường và để đổi lại, giúp ích việc cho gia chủ. Dza Paltrul Rinpoche cũng vậy, ngài làm một số việc giúp cho gia đình tiếp đải ngài, trong đó có việc thường đi đổ bô cho bà cụ mẹ gia chủ.
Tình cờ, có mấy học trò ngài đi tới vùng đó, nghe tin ngài đang ở quanh đâu đây, bèn đi tìm và cuối cùng tới được nhà Rinpoche đang trọ. Họ hỏi bà cụ:
- Bà có biết Dza Paltrul Rinpoche đang ở đâu không?
Bà cụ trả lời:
- Tôi không thấy có Rinpoche nào ở quanh đây cả?
Các tăng sĩ liền tả con người Rinpoche cho bà cụ nghe rồi hỏi tiếp:
- Chúng tôi nghe nói ngài ở trọ đây trên đường hành hương mà?
- Trời ơi! người đó là đại sư Dza Paltrul sao?
Lúc đó hình như ngài đang đi đổ bô giúp cụ. Bà mẹ gia chủ hoảng vía lên và liền chạy trốn.
Câu chuyện chứng tỏ rằng ngay một vị đại sư như Dza Paltrul Rinpoche, người có hàng ngàn môn đồ, đã từng ngồi giảng trên ngai cao, chung quanh bao nhiêu tăng sĩ v.v... ngài cũng vẫn hết sức khiêm cung. Ngài không ngần ngại gì khi làm một việc tầm thường như đổ bô cho bà lão.
Có nhiều phương cách đặc biệt các hành giả có thể tập luyện để thấy mình thấp kém hơn người. Hãy cứ coi một thí dụ đơn giản. Ai trong chúng ta cũng đã kinh nghiệm khi chú ý tới một đối tượng hay một người nào, tùy theo góc độ của cái nhìn mà ta thường có những nhận thức khác nhau. Ðó chính là bản chất của các suy nghĩ.
Tư tưởng của ta không có khả năng nhìn thấu toàn diện các sự vật. Bản chất của tư tưởng có tính cách lọc lừa. Nó có thể chọn ra những tính chất đặc biệt của một đối tượng trong thời điểm nào đó, chứ không thể có cái nhìn quán triệt về toàn thể đối tượng.
Bản chất của tư tưởng là chọn lọc. Khi bạn hiểu được như vậy, bạn sẽ thấy bạn thấp kém hơn mọi người ở một vài điểm, ngay cả khi so sánh với loài côn trùng.
Tỷ dụ bây giờ tôi so sánh mình với loài sâu bọ. Tôi là một Phật tử, một con người có khả năng suy nghĩ và giả thiết là có thể biết cái gì sai, cái gì đúng.
Ðáng lý tôi cũng phải có một số hiểu biết về Phật pháp và trên lý thuyết, tôi đã cam kết hành trì tu học. Khi tôi nhận ra các khuynh hướng bất thiện khởi lên trong tâm hay khi tôi hành xử theo các nghiệp lực của chúng, thì lúc đó, quả thực tôi thấy mình kém loài sâu bọ. Vì sao?
Loài sâu bọ không có khả năng phán xét giữa cái sai và đúng như loài người, chúng không nghĩ đường dài được và không thể hiểu đươc những lời Bụt dạy. Theo quan điểm Phật giáo, các loài côn trùng đó chỉ làm theo thói quen của các nghiệp quả trong chúng mà thôi.
So sánh với chúng, loài người có khả năng quyết định việc mình làm, vậy nên khi hành xử xấu ác, thì có thể nói mình tệ hơn sâu bọ! Suy nghĩ như thế, bạn sẽ thấy căn bản thật sự của cái nhìn "mình thấp kém hơn mọi chúng sanh".
Ðây là bài kệ thứ ba:
3.- Tôi xin nguyện thẩm xét tâm mình
Ngay khi các khổ đau hiện khởi
Ngay khi chúng có thể nguy hiểm cho người
Xin cho tôi đối trị và ngăn cản được chúng.
Bài này có nghĩa là các tư tưởng và cảm xúc bất thiện thường bộc phát mạnh mẽ trong ta, dù cho chúng ta đã tu tập, đã mong ước thoát được những cảm ý, nghiệp lực khổ đau đó. Vì các tập khí lâu đời, và vì thiếu kiên trì trong việc trừ khử chúng, những nghiệp bất thiện có thể lôi chúng ta theo chúng, về hướng phiền não.
Bài kệ dạy ta nên có ý thức về sự kiện này, ta phải có chánh niệm luôn luôn. Chúng ta nên tự xét mình và ghi chú khi bắt gặp mình khởi tâm bất thiện. Làm như vậy, ta sẽ không chịu thua chúng, tỉnh thức để giữ khoảng cách với chúng Ta cũng sẽ không tạo thêm sức mạnh cho chúng, không bị bùng nổ lên vì quá xúc động, không bị chúng thúc đẩy khiến cho ta phải nói ra hay hành động một cách tệ hại.
Nhưng bình thường không như thế. Dù cho có ý thức là các cảm xúc tiêu cực đều có hại, khi chúng chưa dữ dội lắm, ta vẫn thường nghĩ: "Ồ, chuyện này có lẽ không sao đâu".
Vấn đề là khi ta càng quen với phiền não của mình, bạn càng dễ trở thành con mồi để cho chúng hiện ra nữa, bạn thường dễ có khuynh hướng buông thả theo chúng. Vì vậy các tính bất thiện kéo dài mãi mãi. Vậy, điều quan trọng là bạn phải tỉnh thức, như bài kệ đã dạy. Bạn cần tỉnh thức để ngay khi các cảm nghĩ bất thiện khởi lên, bạn có thể ngay lập tức đối đầu và chuyển đổi chúng.
Trước đây tôi đã nói chuyện ta cần phải hiểu Phật pháp tương quan với sự giải thoát khổ đau, và trái tim của sự hành trì Phật pháp là ta cần phải "làm việc" với các khuynh hướng bất thiện trong ta.
Ðối với các Phật tử đang hành trì, điều quan trọng là bạn phải luôn tự xét mình trong cuộc sống hàng ngày, theo dõi những tư tưởng, tình cảm, ngay cả trong giấc mơ nếu có thể. Khi bạn áp dụng chánh niệm9 trong việc thực tập, dần dần bạn sẽ quen với sự tỉnh thức, xử dụng nó được nhiều hơn và hiệu quả của chánh niệm cũng gia tăng hơn.
Ðây là bài kệ tiếp theo:
4.- Khi tôi thấy những con người khó chịu
Bị khổ đau và phiền não thống trị
Xin cho tôi coi họ như người thân
Như bảo châu hiếm khi tôi được gặp.
Bài này nới tới những con người đứng bên lề xã hội vì những hành xử, diện mạo bề ngoài, nỗi cơ cực hay bệnh tật nào đó của họ. Những ai muốn rèn luyện Bồ dề tâm, phải chăm sóc những con người đó một cách đặc biệt như thể gặp kho tàng vậy. Thay vì tránh xa, người thực sự tu luyện lòng từ bi sẽ tự thách đố mình để giữ liên hệ với họ. Phản ứng của ta đối với loại người đó có thể giúp ta tiến nhanh trên con đường thực nghiệm tâm linh.
Trong bối cảnh này tôi muốn nêu lên những tấm gương lớn của các huynh đệ Thiên chúa giáo, đang làm công việc trực tiếp chăm sóc những kẻ ngoài lề xã hội. Tấm gương của thời đại chúng ta là Mẹ Teresa, cả đời săn sóc cho người cùng khổ. Bà là người thể hiện lý tưởng diển tả trong bài kệ trên.
Ðó là điểm tôi thường nêu lên khi gặp các hội viên của những trung tâm Phật giáo khắp nơi trên thế giới. Tôi thường nêu lên vấn đề: một trung tâm Phật giáo chỉ giảng dạy hay thiền tập thôi không đủ.
Tất nhiên có những trung tâm Phật giáo rất đáng nể, có những tu viện mà các tăng sĩ Tây phương có thể thổi được cả thứ kèn cổ truyền Tây Tạng! Nhưng tôi vẫn nhấn mạnh tới chuyện phải mở rộng chương trình sinh hoạt ra để các nguyên lý trong Phật giáo của Bụt có thể đóng góp cho xã hội.
Tôi vui mừng được biết đã có các trung tâm Phât giáo bắt đầu áp dụng đạo Bụt vào mục tiêu xã hội. Chẳng hạn như ở Úc châu, tôi nghe có một trung tâm Phật giáo đang thành lập các nhà An dưỡng (Hospice), giúp những người ở cửa Tử và chăm sóc những bệnh nhân bị Aids.
Tôi cũng nghe nói có trung tâm dạy thiền trong nhà tù, họ tới giảng và chỉ dạy cho tù nhân. Ðó là những tấm gương tốt. Thật là đại bất hạnh cho những con người bị xã hội ruồng bỏ như vậy, nhất là những người bị tù tội.
Không chỉ đau đớn cho họ, mà nhìn rộng ra, thì còn là sự mất mát cho xã hội nữa. Chúng ta không cung cấp cho những con người đó có cơ hội phục vụ xã hội, dù họ có khả năng. Tôi nghĩ cộng động xã hội chúng ta nói chung không nên ruồng bỏ những người như vậy, mà nên bao bọc và chấp nhận khả năng đóng góp của họ. Như thế họ sẽ cảm thấy họ có chỗ đứng trong xã hội, và họ có thể bắt đầu thấy mình có gì để hiến tặng.
Bài kệ tiếp theo:
5.- Khi người ta vì ghen ghét
Ðã lạm dụng, vu cáo, miệt thị tôi
Xin cho tôi nhận phần thua thiệt
Và tặng cho họ phần thắng lợi vinh quang.
Ðiều này dạy ta cho dù kẻ khác khiêu khích bạn vô lý hay không có nguyên do, thay vì phản ứng một cách tiêu cực, người tu tập vị tha có thể tha thứ cho họ. Bạn nên bình tâm, không bị rung động vì cách đối xử của họ. Bài kệ sau đây dạy ta không những bao dung mà ta còn nên coi họ như các vị thầy tâm linh của ta nữa:
6.- Khi nào người tôi đã giúp đở
Hoặc tôi đã hy vọng nhiều
Cư xử tệ hại khiến tôi khổ tâm
Xin cho tôi vẫn thấy họ là bậc thầy quí.
Trong cuốn "Hướng dẫn vào Bồ Tát đạo" của ngài Tịch Thiện Shantideva, có phần bình giải rất quan trọng về phương cách làm sao ta phát triển được các thái độ nói trên, làm sao ta lại nhìn những kẻ hại ta như các đối tượng để học hỏi về tâm linh.
Và trong đoạn thứ ba của cuốn "Ðường vào Trung Quán", ngài Nguyệt Xứng Chandrakirti đã giảng nhiều bài rất hiệu quả, đầy hứng khởi cho việc thực tập nhẫn nhục bao dung.
Bài kệ thứ bảy tóm tắt những phép thực tập mà ta đã học:
7.- Tóm lại, tôi xin hiến tặng lợi lạc và niềm vui
Cho tất cả các bà mẹ ruột thịt hay mẹ gián tiếp của tôi
Xin cho tôi lặng yên nhận chịu
Tất cả những khổ đau của hiền mẫu.
Bài kệ này trình bày phương pháp cho và nhận Tonglen10. Do việc hình dung hóa sự cho và nhận, chúng ta luyện tập tánh bình đẳng và phép hoán chuyển giữa ta và người.
Sự hoán chuyển này không có nghĩa là mình trở thành người kia hay ngược lại, vì chuyện đó không thể thực hiện. Ðây chỉ có nghĩa là ta thay đổi thái độ cố hữu mà ta thường có đối với mình và người khác.
Ta thường coi cái gọi là "Tôi" này như một thứ rất đáng quý, rất cần được chăm sóc, đôi khi lấn sang cả sự an vui của người khác. Trái lại đối với người, ta thường vô cảm, may lắm thì cũng có chút quan tâm nhưng chỉ ở mức cảm xúc mà thôi. Nói chung, ta không để ý tới sự an vui của người ngoài, không coi nó là quan trọng.
Sự thực tập hoán chuyển có nghĩa là ta thay thế thái độ quá bám víu, vướng mắc vào cái Tôi, cố gắng đổi nó, coi bình an của kẻ khác là quan trọng và cần để tâm tới.
Khi thực tập theo phương pháp nhận những khổ đau thua thiệt về mình, tôi cho rằng bạn phải coi xét kỹ và hiểu cho thấu đáo.
Trong khi tu học theo con đường tâm linh, học cách quan tâm tới phúc lợi của tha nhân, bạn có thể gặp một số khó khăn đôi khi phiền não. Vậy nên bạn cần được sửa soạn đầy đủ để chấp nhận chuyện này. Bài kệ không dạy bạn ghét mình hay đặt mình vào các khó khăn, đau khổ, như để tự hành mình. Không, xin nhớ không phải như vậy.
Một tỷ dụ khác về chuyện không nên hiểu lầm ý nghĩa của đoạn văn tôi trích sau đây trong một tác phẩm nổi tiếng của Tây Tạng:
"Xin cho tôi can đảm sống thêm đời đời kiếp kiếp, ngay cả trong hỏa ngục nếu như đó là chuyện cần thiết". Câu này có ý nghĩa: nếu con đường vị tha cần tới sự can trường vô thời hạn như vậy, thì bạn cũng cần có ý chí và quyết tâm chấp nhận.
Cái hiểu thấu đáo những đoạn văn như vậy rất quan trọng, vì nếu không, bạn có thể vì chúng mà tự ghét mình, nghĩ rằng cái Tôi thể hiện những ý tưởng vị kỷ thì cần phải bỏ nó luôn đi.
"Ðừng quên mục tiêu tối hậu của con đường tâm linh là đi tìm nguồn hạnh phúc cao nhất cho ta và cho người". Người nào mưu cầu hạnh phúc chân thực cho mình, cũng là tìm hạnh phúc cho người khác vậy.
Ngay trong quan điểm thực tế, ta cũng thấy là ai muốn phát triển lòng từ bi đối với người khác, đều phải biết căn bản của sự huân tập lòng từ bi là khả năng liên kết được sự quan tâm về mình với sự để ý tới người khác.
Nếu ta không thể làm như vậy thì làm sao ta tới với người khác và chăm lo cho họ? Quan tâm tới người khác đòi hỏi ta phải biết tự lo đã.
Sự thực tập phép cho và nhận Tonglen bao gồm sự huân tập lòng từ bi, tập phần "cho" tức là tập từ bi. Ngài Tịch Thiên Shantideva đề nghị một phương pháp rất hay trơng cuốn "Hướng dẫn vào Bồ Tát đạo": dùng phương pháp hình dung quán tưởng để hiểu những thiếu kém của sự vị kỷ và làm sao đối trị đưiợc nó.
Một bên, bạn hình dung ra con người bạn, chỉ biết để ý tới sự tốt lành của mình, chỉ thể hiện cái ngã và hoàn toàn dửng dưng với phúc lợi của người khác. Ðó là cái ngã chỉ biết có mình, đôi khi đi tới chỗ khai thác người khác một cách quá đáng, để đạt mục tiêu vị kỷ.
Mặt khác, bạn hình dung ra một nhóm người đang đau khổ, không có gì hỗ trợ, không biết nương tựa vào đâu. Bạn có thể chú ý tới từng cá nhân nếu bạn muốn. Tỷ dụ bạn hình dung tới một người bạn thân đang bị phiền não. Hình dung người đó như một đối tượng để bạn thực tập phép cho và nhận.
Sau nữa, bạn hình dung mình như một cá nhân thứ ba, trung dung, không liên hệ với hai bên, chỉ đóng vai quan sát vô tư để xem coi bên nào quan trọng hơn. Tách con người mình ra, đứng ở vị trí quan sát vô tư, bạn sẽ dễ nhìn thấu được những giới hạn của các hành xử vị kỷ. Và bạn sẽ thấy chuyện để tâm tới phúc lợi của đám đông là điều hợp lý, công bằng hơn nhiều.
Kết quả của phép hình dung này là bạn sẽ bắt đầu có thiện cảm với tha nhân và thông cảm sâu xa với những khổ đau của họ. Tới đây, bạn có thể bắt đầu thiền quan về phép 'Cho và Nhận" được rồi.
Có một phép hình dung ích lợi hơn để có thể quán về phưong pháp Nhận, mang vào mình những khổ đau của người khác: Trước hết bạn chú tâm vào những người đau khổ, ráng phát triển tâm từ bi đối với họ, cho tới lúc bạn thấy như không chịu nổi cái đau khổ đó nữa.
Ðồng thời, bạn nhận ra là mình không giúp gì được họ một cách thực tế. Vì vậy, do lòng từ bi thúc đẩy, và để cho có hiệu năng hơn, bạn hình dung đem vào mình những đau khổ đó, kể cả các căn duyên gây khổ và những cảm nghỉ bất thiện của chúng v.v... Bạn có thể tưởng tượng tất cả những khổ đau ấy như một nguồn khói đen, tưởng tượng nó tan hòa vào trong con người bạn.
Trong phép thực tập này, bạn cũng có thể hình dung để chia sớt cho người khác những phước thiện của bạn. Bạn có thể nghĩ tới một việc công đức nào bạn đã làm, các tiềm năng thiện lành có thể có trong bạn, các hiểu biết về tuệ giác tâm linh mà bạn đã đạt được.
Bạn hãy gởi những thứ đó cho chúng sanh để họ cũng được hưởng phúc lợi. Bạn có thể tưởng tượng các thiện tính đó như một nguồn suối hoàn toàn ánh sáng trắng tuôn chảy và thấm nhuần vào chúng sanh. Ðây là sự thực tập bằng cách hình dung phép "Cho và Nhận" Tonglen.
Dĩ nhiên sự luyện tập này không có ảnh hưởng vật chất gì tới người khác, vì nó chỉ là những quán tưởng bằng hình ảnh. Nhưng nó có thể giúp bạn gia tăng sự quan tâm và cảm thông với người khác, cũng như giảm thiểu năng lượng của sự vị kỷ trong bạn. Ðó là những phúc lợi của tu học.
Ðây là cách huấn luyện tâm linh để nuôi dưỡng ước vọng vị tha muốn giúp đở người khác. Khi ước vọng này phát khởi cùng với nguyện vọng được giác ngộ, thì bạn đã thực hiện được Bồ đề tâm - tức là ý hướng vị tha muốn giác ngộ để độ trì cho tất cả chúng sanh.
Chúng ta hãy đọc bài kệ chót:
Xin cho các ước nguyện kể trên
Không bị bát phong11 làm ô nhiễ
Xin cho hiểu thấu tánh hư huyễn của các pháp
Ðể được tự do, không còn chút dính mắc nào
Hai câu đầu trong bài này rất quan trọng cho những người tu tập nghiêm thâm. Bát phong hay "tám ngọn gió, tám thói đời" thường điều khiển chúng ta trong cuộc sống. Ðó là sự tự hào khi được ca ngợi; buồn nản khi bị chê bai hay nhục mạ; hạnh phúc khi thành công; phiền não khi thất bại; vui sướng khi có thêm tài sản; mất tinh thần khi bị nghèo khổ; hài lòng với danh vọng và tủi hổ khi ít người biết tới.
Một con người tu tập thực sự chắc chắn sẽ không bị những tư tưởng trên làm ô trược tới sự phát triển Bồ đề tâm của mình. Tỷ dụ như khi tôi giảng bài pháp này, nếu tôi có một chút tư tưởng nào trong tâm: hy vọng mọi người sẽ kính phục tôi, thì điều đó chứng tỏ là động cơ giảng dạy của tôi đã bị thói đời làm ô trược.
Việc kiểm soát chính mình để không rơi vào tình trạng đó rất ư quan trọng. Tương tự như vậy, một hành giả vẫn thường áp dụng lý tưởng vị tha trong đời sống hàng ngày, bỗng nhiên anh ta suy nghĩ: "Mình tu giỏi quá rồi", thì lập tức "bát phong" của thế tục làm cho việc hành trì của anh bị ô nhiễm.
Chuyện này cũng giống như khi anh ta khởi lên ý tưởng mong được người đời ca tụng vì anh đã cố gắng hành trì và tinh tấn.
Tám thói đời ấy làm hỏng công trình tu tập của chúng ta, nên ta phải làm sao để được thanh tịnh, không bị chúng phá hoại.
Như các bạn đã biết, những bài giảng trong Lo-jong về Chuyển hóa tâm có hiệu quả rất mạnh. Nó thật sự làm cho bạn phải suy nghĩ. Ðây là một đoạn thí dụ:
"Xin cho tôi được vui vẻ khi có người xúc phạm, xin cho tôi không thích thú khi có người khen ngợi - vì như vậy tôi đã làm tăng lên trong tôi sự kiêu hảnh, ngạo mạn và tự phụ. Tôi vui vẻ với những bình phẩm vì ít nhất tôi được mở mắt ra để biết những khuyết điểm của mình".
Cho tới nay, chúng ta đã bàn về tất cả những phương pháp tu tập liên quan tới sự phát triển cái gọi là Bồ đề tâm theo quy ước - nghĩa là khuynh hướng vị tha muốn đạt tới giác ngộ để độ cho hết thảy chúng sanh.
Hai câu dưới của bài kệ chót liên hệ tới việc phát triển Bồ đề tâm tối thượng (Ultimate Boddhichita), tức là sự phát triển tuệ giác về bản chất chân như của thực tại.
Việc phát triển trí tuệ là một phần lý tuởng của Bồ tát, thể hiện trong việc hành trì sáu pháp Ba la mật như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, thông thường chúng ta đã biết, có hai khía cạnh của con đường tu tập theo đạo Phật: phương tiện và trí tuệ.
Cả hai đều có trong định nghĩa của giác ngộ - là sự bất nhị của hình tướng hoàn thiện và trí tuệ viên mãn. Tu tập trí tuệ tiến tới cùng với sự hoàn thiện của tánh giác và thực hành các phương tiện thiện xảo liên hệ tới sự hoàn thiện của các hình tướng.
Phật pháp thường được trình bày trong khung cảnh của ba loại Pháp12, gồm có giáo pháp (nền tảng), hành pháp (con đường) và chứng pháp (kết quả). Trước hết ta khai triển sự hiểu biết về chân lý thực tại trong hai quan niệm tục đế và chân đế13, đó là nền tảng.
Rồi tới hành pháp, ta dần dần thực hành thiền quán cả hai khía cạnh trí tuệ và phương tiện. Chứng pháp, kết quả sau cùng của hành giả là sự bất nhị giữa hình tướng tuyệt đối và trí tuê viên mãn.
Hai hàng chót của tám bài kệ trên:
"Xin cho tôi hiểu thấu tánh hư huyễn của các pháp,
Ðể được tự do, không còn chút dính mắc nào".
Ở đây nhấn mạnh tới hành trì phát triển trí tuệ về bản chất của thực tại nhưng bề ngoài, hai câu trên hình như giải thích phương cách ta liên hệ với thế giới sau khi thiền định.
Phật giáo dạy ta có hai ý nghĩa khác nhau về bản chất thực tại: một là trong thiền quán nhất điểm về Tánh Không, hai là trong những thời gian ngoài khóa thiền, trong đời sống thực tế.
Hai dòng trên liên hệ trực tiếp tới tương quan của hành giả với thế giới sau khi đã quán tưởng về Không - Mọi sự coi như huyễn ảo, đó là nhận thức của thiền giả về bản chất thực tại, sau khi quán tưởng về một điểm "Tánh Không hay trống rỗng".
Theo tôi, đây là những chi tiết quan trọng vì đôi khi người ta tưởng rằng, chỉ cần chú tâm thiền quán về Không trong các thời kỳ tĩnh tọa mà thôi. Họ không để ý tới chuyện áp dụng kinh nghiệm này sau các khóa thiền. Dù sao, tôi vẫn cho là những thời gian ngoài khóa thiền tập rất quan trọng.
Ðiểm chính yếu trong thiền quán về bản chất thực tại là để giúp bạn không bị các hình tướng bề ngoài làm cho điên đảo, và bạn sẽ hiểu được bề ngoài của đối tượng mà bạn thấy, nó khác với bản chất thực sự của nó ra sao. Ðạo Bụt cho là hình tướng bên ngoài có thể làm cho ta lầm lẫn.
Sau khi hiểu sâu hơn về thực tại, bạn có thể vượt qua các hình tướng và bạn sẽ có những liên hệ thích hợp, hữu hiệu và gần thực tế hơn
Tôi thường đưa thí dụ về liên hệ với hàng xóm của ta. Hãy tưởng tượng ta sống ở một khu đô thị không thể có liện hệ gì với hàng xóm. Thực ra bạn nên tìm cách liên hệ tới họ hơn là bỏ lơ họ.
Tương quan tốt xấu tùy theo bạn hiểu người hàng xóm đó ra sao? Nếu người đó rất phong phú, thì khi kết thân với họ, bạn sẽ được hưởng.
Nếu bạn biết trong thâm tâm họ có tánh lừa dối, thì sự hiểu biết về con người đó càng quý giá vì bạn sẽ biết cách giữ liên hệ thân tình, nhưng làm sao cho họ không lợi dụng được bạn. Nói khác đi, khi bạn có sự hiểu biết về bản chất thực tại, thì sau các thời thiền quán, khi sống với thế tục, bạn sẽ biết cách liên hệ với mọi người và mọi việc một cách thích hợp và thực tế hơn.
Bài kệ nói tới sự huyễn ảo của mọi hiện tượng, tiếp theo nói tới tánh chất huyễn chỉ được nhận ra khi bạn đã tự do, không còn dính mắc vào quan niệm : "các hiện tượng có tự tánh độc lập" nữa.
Một khi bạn đã thoát được ràng buộc đó, nhận thức về bản chất huyễn ảo của thực tại sẽ tự động phát khởi. Dù cho chuyện gì tới với bạn, dù nó có vẻ độc lập và hiện hữu thực sự nhưng sau khi thiền quán, bạn sẽ hiểu là nó không thật như thế.
Bạn sẽ thấy mọi chuyện không có bản chất và bền vững như bạn tưởng. Chữ "Huyễn" ở đây chỉ về sư khác biệt giữa nhận thức của bạn về sự vật và thực tướng của chúng.
PHÁT TRIỂN TÂM GIÁC NGỘ
Ðối với những ai quý trọng các lý tưởng tâm linh trong tám bài kệ Chuyển hoá tâm, quý vị nên tụng đọc nó hàng ngày để phát triển trí tuệ. Các Phật tử hành trì đạo Phật nên đọc tụng và quán chiếu về ý nghĩa bài kệ, đồng thời cố gắng phát triển tâm vị tha và từ bi. Những vị có tôn giáo khác, nên tìm học trong giáo pháp của mình và cũng nên cố gắng hành trì, nuôi dưỡng những ý tưởng vị tha trong lý tưởng từ bi giúp người.
Với ước nguyện giải thoát hết mọi chúng sanh,
Con xin mãi mãi quy y Tam Bảo:
Phật, Pháp và Tăng,
Cho tới ngày con đạt được Chánh giác.
Trước đức Phật từ bi trí tuệ viên mãn,
Con xin phát khởi tâm chánh niệm,
Vì lợi ích của tất cả các chúng sanh.
Khi còn thế giới,
Khi còn chúng sanh.
Con nguyền ở lại,
Giúp đời bớt khổ.
(Kệ của ngài Tịch Thiên Shantideva).
Ðể kết luận, những vị nào như tôi đây, tự cho mình là Phật tử, thì nên ráng hết sức để tu tập và hành trì. Nếu các bạn theo một tôn giáo khác, tôi xin khuyên "Hãy học tập tôn giáo của bạn một cách nghiêm chỉnh và hết lòng". Ðối với những ai không có tín ngưỡng, tôi xin các bạn hãy ráng sống cho tử tế, nhân đức. Tôi xin bạn điều đó vì nó thực sự sẽ đem hạnh phúc lại cho chúng ta. Như tôi đã nói: lo cho người thì mình sẽ được hưởng.
GHI CHÚ:
1.- Kim cang thừa: Vajrayana trong Phật giáoTây Tạng Kim cang thừa hay Mật Thừa được coi là giai đoạn chót của Ðại Thừa, nhằm khai mở rốt ráo lòng từ bi và chuyển đổi tâm thức thành trí tuệ viên mãn. Chỉ có các vị Tổ và Bồ tát mới đi được con đường này.
Trong Kim cang thừa, các thiền giả chuyên chú vào việc phát triển Bồ đề tâm. Quí vị đó hành thiền, tụng niệm và trì chú rất nghiêm mật, rốt ráo để đạt đước đại ngộ. Nhờ nhiều phép tu thiện xảo và biết phối hợp âm thanh (Chú) với cử chỉ (Ấn quyết) và tâm ý (Tam ma địa) mà thân, khẩu, ý các vị thanh tịnh, dứt trừ hết các vọng niệm và phát triển trí tuệ Bát nhã.
Kim cang thừa thường bị hiểu lầm là chiếc thang máy, là con đường tắt đưa người ta tới Niết bàn... Theo sách Mật tông thì sau khi trải qua nhiều kiếp tu hành, nay được một minh sư hướng dẫn và dốc lòng tu tập, người ta mới theo Kim cang thừa mà đạt tới quả vị Phật. Lúc đó, các thức đã biến thành các Trí:
- A lại Da (Alaya) thành ra Ðại Viên cảnh trí - Giác ngô viên mãn.
- Mạt Na (Manas) thành Bình đẳng tánh trí (Phi nhất phi dị) - Không còn vấn đề ngã hay vô ngã.
- Ý thức (Vijnana) thành ra Diệu quan sát trí: có sự hiểu biết thường trực về Y tha khởi, đạt tới cái thấy của Viên thành thật...(Xin xem tiếp các sách ở mục tham khảo).
2.- Lục độ Ba la mật: sáu phép qua bờ (Lục đáo bỉ ngạn pháp - six perfections), sáu phép tu để từ cõi u mê (vô minh) qua được bờ giác ngộ. Ðây là sáu phép tu của người có hạnh nguyện Bồ tát, nhờ đó quý vị có thể tự độ và giúp được bao người. Sáu phép tu gồm có:
- Bố thí Ba la mật: Dana paramita.
- Trì giới Ba la mật: Sila paramita.
- Nhẫn nhục Ba la mật: Kshanti paramita.
- Tinh tấn Ba la mật: Virya paramita.
- Thiền định Ba la mật: Dhyana paramita.
- Trí tuệ hay Bát nhã Ba la mật: Prajna paramita.
Bốn phép tu đầu thuộc về các đức tính, khi ta khai triển được bốn phép tu này thì sẽ thực hành được Thiền định và hướng đến trí tuệ toàn vẹn, thể nhập được tự tánh, chân như.
3.- Uẩn (ngũ uẩn hay ngũ ấm: five aggregate - skandhas): năm yếu tố kết hợp tạo nên con người, gồm có:
- Sắc: thân thể.
- Thọ: các cảm giác, cảm thọ.
- Tưởng: tri giác, nhận biết.
- Hành hoặc tâm hành: gồm tất cả những hoạt động tâm lý của con người. Có tất cả 51 tâm hành trong đó có thọ và tưởng, là hai tâm hành quan trọng nhất được tách riêng.
- Thức: cái biết.
3a.- Sáu thức, A lại da thức: là những dòng cảm giác hay bản thể hiểu biết phân biệt sự vật. Khi các giác quan (Căn) tiếp xúc với các đối tượng của chúng (Trần hay cảnh) thì thức (cái biết) phát sanh. Theo tông Duy Thức (Mind Only School - một trong hai trường phái lớn của Phật giáo Ðại thừa), có 8 thức hay 8 tâm thức cũng gọi là tâm vương:
- Nhãn thức (Eye consciousness): cái biết sanh ra khi mắt (nhãn căn) tiếp xúc với hình sắc của cảnh vật (sắc trần).
- Nhĩ thức (Ear consciousness): cái biết sanh ra khi tai (nhĩ căn) tiếp xúc với âm thanh (thanh trần).
- Tỷ thức (Nose consciousness): cái biết do mũi (tỷ căn) tiếp xúc với mùi (hương trần).
- Thiệt thức (Tongue consciousness): cái biết do lưỡi (thiệt căn) tiếp xúc với các đồ ăn uống (vị trần).
- Thân thức (Body consciousness): cái biết do thân thể (thân căn) tiếp xúc với mọi vật (xúc trần).
- Ý thức (Mind consciousness): cái biết do ý căn (Mạt na) tiếp xúc với pháp trần.
-Mạt na thức (Manas - thức thứ 7): bản năng chấp ngã, trực giác chấp ngã hay bản năng tự tồn, có mặt ngay từ khi ta mới ra đời. Mạt na là trung tâm của các nhận thức sai lầm - phân biệt đối đải (ta và người, trước sau, trên dưới, sanh diệt v.v...) và Mạt na cũng là nền tảng cho mọi hành động của sáu thức trên.
- A lại da (Alaya hay tàng thức - thức thứ 8): đây là thức nền tảng của mọi nhận thức và mọi hiện tượng tâm sinh, vật lý... Tâm lý học Tây phương nói tới "tiềm thức, vô thức, nhịp sống..." mới chỉ là các khái niệm gần giống với A lại da, vì Tàng thức sâu kín, rộng lớn và sinh động hơn nhiều. Nó là bản chất hiện hữu của sinh mạng và của môi trường trong đó sinh mạng tồn tại...(Xem các sách trong mục tham khảo).
4- Trung quán (Madhyamaka): một trong hai triết thuyết lớn của Phật giáo Ðại thừa, do ngài Long Thọ khai triển, dựa vào nguyên lý Prasanga (là một thuật ngữ có nghĩa là Quy mậu luận chứng - biện luận tới cùng), nên có khi Trung Quán được gọi là Prasangika Madhyamaka. (Triết học Trung Quán của Jaidev Singh, Thích Viên Lý dịch, Viện Triết lý QT xuất bản).
5.- Phân tích bảy điểm: phương pháp phân tích cái ngã theo bảy điểm phủ định, từng bước một. Ðó là:
- Ta không nhận diện được cái ngã qua những phần tử tạo nên nó.
- Ngã không khác với các phần tử đó.
- Ngã không phải là bản chất của chúng.
- Ngã cũng không luôn luôn tùy thuộc các phần tử tạo ra nó.
- Các thành phần đó không thuộc quyền sở hữu của ngã.
- Ngã không mang hình dáng của các phần tử tạo ra nó.
- Và ngã cũng không phải là một hỗn hợp của chúng. (Ghi chú bản tiếng Anh).
6.- Svabhava: tự tánh, bản chất của thực tại. Ðó là một thực tại tuyệt đối. Phái Trung Quán không chấp nhận tự tánh của một vật là do cái gì khác đem lại, hay có liên hệ, tùy thuộc vào một vật khác. Từ định nghĩa đó, phái Trung Quán dùng chữ Svabhava đi đôi với chữ Không. Svabhava-Sunya có nghĩa là tự tánh không: trên thế giới không có vật thể nào tự mình tồn tại được, không thứ gì có tự ngã độc lập vì tự tánh tuyệt đối của nó là trống rỗng, là không. (Trích sách Triết học Trung Quán của Jaidev Singh, Thích Viên Lý dịch).
7- Ngọc như ý: viên đá quý (ngọc) có phép thần thông, giúp bạn thực hiện mọi lời ước nguyện.
8.- Ba phép huấn luyện cao đẳng (three higher trainings) về đạo đức, thiền định và trí tuệ - tương đương với sự hành trì giới luật, thiền quán và sự khai mở trí tuệ bằng cách học hỏi kinh luận, thực chứng để đi tới giác ngộ. Ðó là con đường của các Phật tử chân chánh.
9.- Chánh niệm; tỉnh thức, tỉnh giác hay tự biết, nghĩa là có ý thức về những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Chánh niệm thường được dịch sang Anh ngữ là Mindfulness, Awareness. (Trong cuốn Trái tim của Bụt, Hòa thượng Nhất Hạnh giảng dạy về Chánh niệm rất cặn kẻ, cụ thể và đầy đủ trong nhiều chương).
10.- Tonglen: phép đem những an vui hạnh phúc của bạn cho người khác và nhận vào mình những phiền não, khổ đau của họ. Ðó là một phép tu "Từ bi quán" cao thượng, do thiền sư Geshe Chekhawa của Tây Tạng (thế kỷ 11) khai triển và truyền lại cho các đệ tử sau khi chứng nghiệm hiệu quả lớn lao của nó. (Sách Tạng Thư Sống Chết của Sogyal Rinpoche, Sư cô Trí Hải dịch, Thanh Văn xuất bản).
11.- Bát phong hay bát pháp: tám thứ gió hay tám thói đời, ngăn cản không cho hành giả đạt tới giác ngộ Tiếng Hán Việt diễn tả bát phong là: Lợi, Suy (yếu), Hủy (chê), Dự (khen), Xưng (ca tụng), Cơ (chế diễu), Khổ, Lạc. (Xem sách Pháp số căn bản của Hạnh Cơ - Làng Cây Phong xuất bản).
12- Ba loại pháp (Tam pháp): thâu tóm tất cả Phật pháp, gồm có:
- Giáo pháp: tất cả những nền tảng (gồm 12 phần) Phật đã giảng dạy suốt cuộc đời hành đạo của ngài.
- Hành pháp: các phép tu như Lục độ, Thập nhị nhân duyên...
- Chứng pháp: những kết quả do tu hành mà chứng được quả Bồ đề, quả Niết bàn...
(Theo Tự diển Phật Học Hán Việt, nhà xất bản Khoa học xã hội).
13.- Tục đế, chân đế:
- Tục đế (Samvrti-satya): chân lý tương đối, sự thật trong cuộc đời thế tục, do phân biệt, khái niệm mà có.
- Chân đế (Paramartha-satya): chân lý hay sự thật tuyệt đối, sự thật vượt khỏi khái niệm của thế giới pháp tánh, nhìn từ bản tánh không phân biệt.
Tục đế (hay thế đế, thế tục đế) và chân đế (hay thắng nghĩa đế, đệ nhất nghĩa đế) là hai khía cạnh của chân lý. Trong các bài giảng tùy vào các nhân duyên (thời gian, khung cảnh, thính chúng nghe pháp) mà Bụt đề cập tới tục đế hay chân đế. Khi học kinh điển, chúng ta phải có khả năng phân biệt hai sự thật đó thì mới không bị lộn xộn. (Theo Trái tim Mặt trời, HT Nhất Hạnh).
SÁCH THAM KHẢO
1.- Thích Nhất Hạnh:
- Vấn đề nhận thức trong Duy Thức học - Lá Bối 1978.
- Trái tim mặt trời - Lá Bối 1982.
- Trái tim của Bụt - Lá Bối 1997.
- Thiết lập Tịnh Ðộ - Lá Bối 2000.
2- Jaidev Singh, Thích Viên Lý: Ðại cương Triết học Trung Quán, Viện Triết lý VN và thế giới, 1998.
3.- Hạnh Cơ: Pháp số căn bản, Làng Cây Phong, 1996.
4.- Sogyal Rinpoche, Thích nữ Trí Hải: Tạng thư sống chết, Thanh Văn, 1996.
5.- Geshe Tsultim Gyeltsen: Mirror of the Wisdom, Thubten Shardye Ling Publication.
6- Các sách Anh ngữ của Ðạt Lai Lạt Ma như:
- Fundamental Wisdom of the Midle Way, Oxford University Press, 1995.
- The Power of Compassion, Thorsons, London, 1995.
- Four Noble Truths, Thorsons, 1998.
- Heart of the Buddha's path, Thorsons, 1999.
* * * *
Trích dẫn: CHUYỂN HÓA TÂM (Phát khởi lòng Từ Bi) của ÐẠT LAI LẠT MA thứ 14. Nguyên tác: TRANSFORMING THE MIND (Teachings on Generating Compassion), Anh ngữ: Geshe Thupten Jinpa. Việt ngữ: CHÂN HUYỀN dịch, nhà xuất bản: Làng Cây Phong, 2001.
Sưu tầm và đánh máy: Thanh Sơn.
Nếu chúng ta cứ coi mình là trung tâm và chỉ quan tâm tới chính mình, sẽ dẫn tới sự thiếu tin tưởng, sợ hãi và nghi ngờ. Quan tâm tới lợi ích của người khác sẽ làm giảm sợ hãi và nghi ngờ, trong khi đó một tâm thức rộng mở và minh bạch làm phát sinh niềm tin và tình bằng hữu.
Gia trì tôn tượng Tathagata Tsal và truyền trao giáo pháp tại Sikkim
Ravangla, Sikkim, Ấn Độ, ngày 25 tháng 3 năm 2013 - Đức Đạt Lai Lạt Ma đã được chính phủ Sikkim thỉnh mời tới Ravangla để gia trì tôn tượng Tathagata Tsal bằng đồng cao 128 feet, một trong những tượng Phật lớn nhất trên thế giới. Ngài được cung đón theo đúng nghi thức truyền thống để cử hành đại lễ gia trì an vị tôn tượng mới.
Tại đây, ngài đã thực hiện nghi thức cắt băng khánh thành và mở các cánh cửa lên khán đài; tòa ngồi được sơn khắc rất công phu hình các bản tôn phẫn nộ ở các bức tường bên trong và những hình ảnh cuộc đời Đức Phật ở các bức tường bên ngoài. Ngài đã xem xét kỹ các hình ảnh một cách thán phục trước khi an tọa trên tòa. Buổi đại lễ gia trì có sự hiện diện của Goshir Gyaltsab Rinpoche, Thủ tướng Pawan Chamling và Tổng thống BP Singh của Sikkim cùng hàng chục ngàn các Phật tử tín tâm. Rất nhiều lời cầu nguyện đã được tán tụng, gạo cát tường thành tựu được rắc phía trước tôn tượng và nghi thức nhiễu quanh tôn tượng được thực hiện sau đó.
Đức Đạt Lai Lạt Ma ban gia trì cho tôn tượng Tathagata Tsal tại Ravangla, vương quốc Sikkim, Ấn Độ 25 tháng Ba năm 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL
Trong lời phát biểu, thủ tướng Pawan Chamling đặc biệt tri ân lên Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đặt tên cho dự án tôn tượng Tathagata Tsal và dành thời gian tới đại lễ gia trì ngày hôm nay. Ông nhấn mạnh rằng người dân Sikkim từ lâu đã sống trong sự hòa hợp và nhiều tín ngưỡng được tôn trọng nơi đây trong một tiểu bang với 328 chùa Phật giáo, 318 thánh đường Hindu, 74 nhà thờ Thiên chúa, 7 nhà thờ Hồi giáo và 2 thánh đường đạo Jain. Ông mong nguyện rằng quần thể tôn tượng Phật sẽ thu hút khách hành hương từ khắp nhiều nơi. Ông nói rằng chính phủ Sikkim hoạch định chính sách dựa trên các giá trị Phật giáo, cam kết hỗ trợ các tôn giáo khác nhau và thúc đẩy các giá trị tích cực nơi người dân. Ông nhắc tới việc, nương theo lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một thư viện và trung tâm nghiên cứu sẽ được thành lập trong quần thể của tôn tượng.
Tổng thống Sikkim, H.E. BP Singh, chia sẻ về ân phước của Đức Đạt Lai Lạt Ma giành cho Sikkim và người dân nơi đây. Ông đã so sánh Thủ tướng với vị Hoàng đế Ấn Độ Ashoka vĩ đại, ngài đã kiến lập vô số các thánh tích, thiết lập Phật giáo trên khắp Ấn Độ và quản lý đất nước dựa trên các giá trị Phật giáo. Ông kêu gọi công chúng hãy khắc ghi lời dạy của Đức Phật về bất bạo động và lòng từ bi.
Tiếp đến Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chúc mừng và dạy rằng:
"Tôi đã đến để gia trì cho tôn tượng rất đặc biệt này; chúng ta đã cử hành các nghi thức Hộ pháp Phổ ba Kim cương (Vajrakilaya), bởi vì thánh địa có nhân duyên về mặt lịch sử với Bản tôn thiền định này. Bản thân nơi chốn này rất thanh bình, rộng mở và an bình, và tôn tượng làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên của cảnh quan nơi đây, do đó tôi mong nguyện tất cả sẽ truyền cảm hứng, mang lại sự chuyển hóa nội tâm cho những người hành hương tới đây. "
Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng Gyaltsap Goshir Rinpoche (bên trái), Thống đốc Sikkim BP Singh và Thủ tướng Pawan Chamling (R) tại đại lễ gia trì tôn tượng Phật Tsal Như Lai, Ravangla, Sikkim, Ấn Độ 25 tháng ba năm 2013. Photo / Jeremy Russell / OHHDL
Ngài chia sẻ rằng ngài đã biết đến thủ tướng trong nhiều năm và rất ngưỡng mộ các dự án xây dựng di sản Phật giáo tại Sikkim, trước đây là tôn tượng đạo sư Liên Hoa Sinh (Guru Padmasambhava) trên đồi Samdruptse, bây giờ là tôn tượng Đức Phật và cả tôn tượng Bồ tát Quán Âm sắp hoàn thành.
"Tôi cầu nguyện rằng tất cả những tâm nguyện cao quý của quý ngài sẽ nhanh chóng thành tựu viên mãn không chút trở ngại.”
Nhắc lại các nhân duyên của mình với Sikkim, ngài dạy rằng ngài đã đến đầu tiên khi trên đường tới đại lễ kỷ niệm Đức Phật Jayanti tại Bồ Đề Đạo Tràng vào năm 1956, khi đó ngài đã đi qua Nathula và thủ phủ Gangtok. Ngài đã trở lại Sikkim nhiều lần từ năm 1959 tới nay.
Cũng như tôn tượng đạo sư Liên Hoa Sinh, tôn tượng này sẽ ban sự gia trì to lớn trong nhiều năm tới, nhưng tôn tượng không thể giảng pháp được. Điều chúng ta cần là những hướng đạo để rèn luyện tâm thức. Hai mươi năm trước, khi đại Bảo Tháp Nhật Bản Hòa bình Thế giới được an vị tại Rajgir với sự hiện diện của Chủ tịch Ấn độ, ngài đã chỉ ra rằng bảo tháp thực sự cần phải được kiến lập trong tâm chúng ta. Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy rằng giáo pháp của Đức Phật bao gồm vô số phương pháp để rèn luyện tâm thức, theo khuynh hướng, căn cơ mỗi chúng sinh.
Giáo pháp của đức Phật được kết tập trong hơn 300 tập Kangyur và Tengyur kinh điển Phật giáo, mà chúng ta cần tu học. Kinh sách không chỉ là đối tượng để kính ngưỡng, thờ phụng mà chúng ta cần mở ra và đọc. Chúng ta cần phải biết tâm thức vận hành như thế nào, những cảm xúc vận hành ra sao. Cầu nguyện là chưa đủ, chúng ta phải trưởng dưỡng thân tâm. Văn học Phật giáo rất phong phú kiến thức về tâm thức và ngày nay đang thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học hiện đại, những người nhìn thấy những phương pháp này như là cội nguồn đích thực của sự an bình nội tâm.
Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ với thính chúng vào dịp đại lễ gia trì tôn tượng Phật Tathagata Tsal, Ravangla, Sikkim, Ấn Độ 25 tháng ba năm 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL
Khán đài phía trước tôn tượng Tathagata Tsal, Ravangla, Sikkim, Ấn Độ 25 tháng ba năm 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL
Thính chúng lắng nghe giáo pháp, Ravangla, Sikkim, Ấn Độ 25 tháng ba năm 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL
Vào buổi chiều, Đức Đạt Lai Lạt Ma trở lại khán đài chia sẻ về bộ luận "37 phẩm Bồ tát hạnh" của đại học giả Ngulchu Thogme Sangpo. Ngài luận giải rằng Pháp có thể được hiểu là cứu vớt chúng ta khỏi khổ đau. Pháp là một thuật ngữ có thể được áp dụng cho tất cả các truyền thống tôn giáo trên thế giới. Chúng ta có thể đặt câu hỏi Pháp bảo vệ chúng ta khỏi đau khổ bằng cách nào. Pháp có năng lực như vậy bởi giúp rèn luyện chúng ta điều phục được các cảm xúc tiêu cực đang làm phát sinh khổ đau. Pháp cho phép ta chuyển hóa thân tâm tự do khỏi khổ đau.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chia sẻ về sự khác biệt giữa các tôn giáo hữu thần, có xu hướng đặt niềm tin vào một đấng sáng tạo và những truyền thống tôn giáo vô thần không tin tưởng vào đấng sáng tạo, mà thay vào đó dựa trên nền tảng luật nhân quả. Phật giáo dạy rằng nếu bạn làm điều thiện bạn có khuynh hướng đạt được quả thiện và nếu bạn làm điều ác, bạn tạo ra các nhân của khổ đau và bất an. Từ quan điểm này, những trải nghiệm khổ đau và an lạc đều phụ thuộc vào mỗi chúng ta. Ngày nay, tất cả các chính truyền thống tôn giáo của thế giới đang phát triển mạnh ở Ấn Độ, nơi đây sự tôn trọng và hòa hợp giữa các truyền thống là một thực tại từ cổ xưa nhưng lại rất sống động.
Chư Phật đã từ bi hiển thị cho chúng sinh con đường để có thể chứng đạt giải thoát giác ngộ. Thogme Sangpo là một vị Bồ Tát và một hành giả trứ danh, ngài đã từ bi trước tác nên bộ luận này.
"Một khi chúng ta đã cùng tìm hiểu bộ luận với nhau, xin hãy đừng lãng quên và để bụi bám trên kệ sách. Chỉ để kinh sách trong nhà thôi thì không có nhiều lợi ích, bạn phải đọc, tư duy về ý nghĩa, và trở nên thấm nhuần với lời kinh. Bạn phải áp dụng giáo pháp vào trong đời sống hàng ngày. Tôi đã được truyền trao bộ luận này từ đại học giả thành tựu Kunnu Lama Rinpoche, Tenzin Gyaltsen. "
Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc lại rằng con đường Bồ Tát cần phải được thực hành chứ không chỉ đơn thuần là đối tượng của cầu nguyện; cũng như Đức Phật đã làm, bạn hãy thực hành và tích lũy công đức. Đây là cách thức làm cho đời sống của chúng ta có ý nghĩa. "37 phẩm" truyền dạy về các ứng dụng trong con đường thế gian, sau đó hướng đạo các cách thức để phát triển tâm tỉnh thức giác ngộ. Tiếp đến các phương tiện thiện xảo, trí tuệ và sáu Ba la mật, và cuối cùng là hồi hướng, kết thúc 37 phẩm thực hành.
Ngày 26 Tháng 3 năm 2013 - Quán đỉnh Bạch độ Phật mẫu Trường thọ tại Ravangla và giảng pháp về đạo đức thế tục tại thủ phủ Gangtok.
Đức Đạt Lai Lạt Ma Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đi bộ đến khán đài giảng Pháp phía trước tôn tượng Tathagata Tsal tại Ravangla, hàng ngàn thính chúng có cơ hội được gần và thấy rõ ngài hơn.
Trước khi truyền trao quán đỉnh Bạch Độ Phật mẫu Trường thọ Tara, đức Đạt lai Lạt Ma đã khái lược lại cuộc đời của Đức Phật. Hơn 2500 năm trước, đức Phật đã đản sinh trong một gia đình hoàng gia, ngài đã xả ly, tìm cầu con đường tâm linh, thành đạo và hóa độ chúng sinh. Trong một câu kệ tri ân tới giáo pháp của Đức Phật, Bồ tát Long Thọ đã tán thán: "Con xin đỉnh lễ lên đức Thế tôn, ngài đã truyền trao giáo pháp để tận trừ tà kiến lầm sai cho chúng sinh.” Lời tán thán đó cho thấy tâm từ bi nơi Đức Phật đã thúc đẩy tâm nguyện giải thoát tất thảy chúng sinh khỏi khổ đau. Nương nơi Bồ đề tâm tỉnh giác, ngài đã thành tựu giác ngộ, và khởi phát tâm nguyện cứu độ chúng sinh. Ngài đã dạy cần phải xả ly những gì và thực hành những gì để chúng đệ tử có thể chứng đạt giác ngộ như ngài. Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy rằng chỉ viếng thăm chùa, tự viện và tán tụng cầu nguyện không tận trừ được bóng tối của vô minh đang che mờ chúng ta, chỉ có trí tuệ mới là đối trị cho quan kiến lầm sai nơi mỗi người.
Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền trao giáo pháp tại Ravangla, Sikkim, ngày 26 tháng 3 năm 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL
Bát Nhã Tâm Kinh dạy rằng ngũ uẩn không có tự tính cố hữu, sắc chính là không, không chính là sắc, điều đó không có nghĩa là không có sắc tướng mà sắc tướng tồn tại phụ thuộc vào các duyên bên ngoài. Khi chúng ta thấy một thứ gì hấp dẫn, chúng ta khuyếch đại những phẩm chất của nó. Nhà tâm lý học người Mỹ Aaron Beck đã chia sẻ với ngài rằng, 90% phản ứng của chúng ta trong những trường hợp như trên là do phóng chiếu của chính tâm ta. Quan điểm này phù hợp với luận giải của đức Long Thọ. Kết luận trên của những nhà khoa học không dựa trên niềm tin, mà dựa trên các thí nghiệm và suy luận.
Một trái tim nồng ấm sẽ mang lại lợi ích cho tất thảy mọi người. Nếu, thay vào đó, bạn lừa dối, chèn ép và lợi dụng người khác, bạn sẽ không hạnh phúc, bạn sẽ không có bình an nội tâm. Vì vậy tốt hơn hết là hãy chia sẻ một trái tim nồng ấm. Không làm tổn hại chúng sinh, năng làm những việc lành, tịnh hóa các nghiệp chướng, đó là con đường dẫn tới Phật quả.
Trong đại lễ quán đỉnh Bạch độ Phật mẫu Trường thọ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hướng đạo cho toàn thể thính chúng một nghi thức toát yếu khai phát Bồ đề tâm tỉnh thức, hạnh nguyện Bồ tát. Ngài dạy rằng ngài luôn phát hạnh nguyện Bồ tát mỗi ngày, bắt đầu với nguyện lực sống mỗi ngày nương theo giáo pháp của Đức Phật.
Về quán đỉnh Bạch độ Phật mẫu mà ngài đang truyền trao, ngài dạy rằng:
"Giáo pháp này xuất phát từ truyền thừa quan kiến bí mật của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ V. Tôi đã thụ nhận được những quán đỉnh và khẩu truyền và đã nhập thất nghiêm mật các giáo pháp này, tôi truyền trao giáo pháp này tại nơi đây bởi vì vương quốc Sikkim có nhân duyên với giáo pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ V".
Tiếp theo ngay sau buổi lễ quán đỉnh là lễ cúng dường lên Đức Đạt Lai Lạt Ma, thỉnh cầu ngài trường thọ.
Sau đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tới thủ phủ Gangtok bằng đường bộ. Tất cả dọc theo tuyến đường, ở các thị trấn và các làng mạc, hàng ngàn người đứng xếp hàng dọc hai bên đường, cầm khăn chúc phúc và hoa, đốt hương trầm để cung đón Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tại Kendra Manan thủ phủ Gangtok, ngài đã giảng pháp cho khoảng 1000 sinh viên.
Rất đông thính chúng tham dự lễ quán đỉnh Bạch độ Phật mẫu được trao truyền bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Ravangla, Sikkim, ngày 26 Tháng 3 năm 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL
"Trước hết, tôi xin lỗi vì đã đến trễ gần một giờ", Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu, "bởi vì thời tiết bất ổn tại Ravangla nên chúng tôi quyết định đi bộ thay vì máy bay trực thăng, do đó thời gian lâu hơn. Tuy nhiên, tôi được trao cơ hội chiêm ngưỡng các ngôi làng, người dân, các vườn chè, những khu rừng và các vườn hoa lan tuyệt đẹp của các bạn. Đây là một khu vực rất xanh tươi trù phú, các bạn rất có phước duyên được sinh sống nơi đây.
"Tôi vô cùng hoan hỷ được gặp gỡ quý thiện hữu tri thức trẻ tuổi ngày hôm nay. Thời gian luôn vận động không ngừng nghỉ, không có gì làm dừng lại được. Thế kỷ hai mươi đã trôi qua và cùng với đó là rất nhiều người trong thế hệ của chúng tôi. Đó có lẽ là thế kỷ quan trọng nhất trong lịch sử về sự thay đổi và phát triển công nghệ, nhưng cũng là một kỷ nguyên của bạo lực khủng khiếp nhất. Nhiều người ước tính có 200 triệu người đã chết, là kết quả của bạo lực trong thế kỷ XX. Đây là lý do tại sao điều quan trọng là hãy tận dụng các cơ hội để làm cho thế kỷ XXI hòa bình hơn."
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ ra rằng, ở mức độ toàn cầu, dân số đang ngày càng tăng, nhưng nguồn tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt. Có một khoảng cách lớn giữa người giàu và người nghèo, giữa các nước khu vực Bắc và Nam. Ngay cả khi sự phát triển đi đầu ở một số nơi trên thế giới, thì ở nhiều nơi khác nạn đói vẫn xảy ra. Ngài dạy rằng chúng ta cũng cần đồng thời phải nâng cao mức sống của nhiều người. Ngay bây giờ chúng ta đang có một cơ hội để có một hướng đi mới, nếu nỗ lực, chúng ta có thể chuyển hóa những sai lầm trong quá khứ của mình.
"Các bạn, những ai chưa đến 30 tuổi thật sự thuộc về thế kỷ 21. Tương lai nằm trong tay các bạn. Thế kỷ này tràn đầy sự an lạc hay sợ hãi và phá hủy đều hoàn toàn phụ thuộc vào các bạn.”
Một bé trai đã lên cúng dường đức Đạt Lai Lạt Ma khi bắt đầu buổi giảng pháp với sinh viên ở Gangtok, Sikkim, ngày 26 tháng ba 2013. Photo / Jeremy Russell / OHHDL
Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy rằng, ngài luôn coi bản thân chỉ là một trong 7 tỉ con người, là những động vật xã hội, phụ thuộc vào phần còn lại của cộng đồng. Là con người, chúng ta có một trí tuệ tuyệt hảo, ta nên sử dụng nó để thu hẹp khoảng cách giữa bề ngoài và hiện thực. Thế hệ trẻ ngày hôm nay là niềm hy vọng của chúng tôi cho tương lai, trong khi thế hệ cũ, thế hệ của ngài bây giờ có trách nhiệm phải nói với các bạn trẻ về những sai lầm mà họ đã làm trong quá khứ.
"Là động vật xã hội, nhân tố trọng yếu để có một đời sống an lạc là tình bằng hữu, sự tin tưởng và tâm thức rộng mở. Tất cả chúng ta đều như nhau, đều là thành viên của cùng một gia đình nhân loại. Niềm tin tưởng là nền tảng của tình bằng hữu và chúng ta sẽ có được, nếu như, bên cạnh những kiến thức có được từ giáo dục phổ thông, ta phát triển một trái tim nồng ấm. Điều này đưa đến sự tự tin và sức mạnh nội tâm, thông qua niềm tin và tình bằng hữu sẽ dẫn đến sự hợp tác với những người khác. Nhưng nếu chúng ta cứ coi mình là trung tâm và chỉ quan tâm tới chính mình, sẽ dẫn tới sự thiếu tin tưởng, sợ hãi và nghi ngờ. Quan tâm tới lợi ích của người khác sẽ làm giảm sợ hãi và nghi ngờ, trong khi đó một tâm thức rộng mở và minh bạch làm phát sinh niềm tin và tình bằng hữu.
"Nhiều nhà khoa học nổi tiếng đang bắt đầu thừa nhận rằng một trái tim nồng ấm rất có ích cho sức khỏe thể chất của chúng ta bởi vì nó mang lại bình an nội tâm. Họ có bằng chứng cho thấy một tâm thức lành mạnh là yếu tố quan trọng giúp duy trì một cơ thể khỏe mạnh".
Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc lại rằng ngài chia sẻ với tư cách như một con người như bao người khác. Sự khác biệt duy nhất giữa ngài và các sinh viên đang lắng nghe là họ còn trẻ và ngài đã ở tuổi 78. Ngài nhận thấy khi cho rằng mình là người Tây Tạng, là một Phật tử, là Đức Đạt Lai Lạt Ma, một sự phân biệt thứ yếu, nó tạo ra khoảng cách với nhiều người và tạo ra các rào cản để tiến bộ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ giáo pháp với hơn 1000 sinh viên tại thủ phủ Gangtok, Sikkim, ngày 26 tháng ba năm 2013. Photo / Jeremy Russell / OHHDL
Người Tạng và người Sikkim cùng chia sẻ truyền thống tâm linh chung và tri thức Tây Tạng khởi nguồn từ truyền thống Nalanda, nơi mà nghiên cứu và phân tích luôn được coi trọng.
"Đừng nghĩ Phật giáo chỉ là những lời cầu nguyện, gõ trống, thổi tù và hay treo cờ cầu nguyện. Tất cả các nghi thức đó đều có vai trò của mình, nhưng không có bằng chứng nào về các bậc thầy Nalanda từng tham gia các nghi thức như vậy. Các ngài tu học và áp dụng những điều đã được học vào trong sự thực hành."
Một phụ nữ trẻ đã đặt câu hỏi liệu nghiệp tiêu cực có thể được thay đổi, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng đó là một câu hỏi hay, nhưng tự hỏi liệu “tiếng Anh chưa thuần thục” của ngài có đủ trả lời. Ngài dạy rằng:
"Hãy tưởng tượng một buổi sáng bạn mất bình tĩnh và nói những lời nặng nề với một ai đó và làm tổn thương họ. Điều này tạo ra nghiệp xấu. Nhưng nếu vào buổi chiều, bạn gặp lại người đó, bạn xin lỗi và kết bạn trở lại thì nó giúp thanh lọc các nghiệp xấu.”
Một học sinh khác hỏi: "Nhiều người coi ngài là một đấng thượng đế, như vậy có đúng không?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời đơn giản: "Một số người coi tôi là “Thượng đế sống”, có người khác lại coi là “quỷ”- cả hai đều là vô nghĩa. Tôi coi bản thân là một con người bình thường".
Thính chúng lắng nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Gangtok, Sikkim, ngày 26 tháng 3 năm 2013. Photo / Jeremy Russell / OHHDL
Với câu hỏi làm thế nào để điều phục lòng tham, Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyên hãy phân tích giá trị của tiền. Hãy tự hỏi liệu nó thực sự mang lại hạnh phúc. Hãy hỏi xem những người sống trong cảnh xa xỉ liệu thực sự hạnh phúc hơn. Ngài nhớ lại rằng trước đây ngài đã chia sẻ tại Gangtok về giới hạn của giá trị vật chất, trong khi giá trị của sự phát triển tinh thần là vô hạn.
Cuối cùng, một sinh viên đặt câu hỏi liệu sự giận dữ có bao giờ mang lại bất kỳ lợi ích nào không. Ngài đã dạy rằng, nó phụ thuộc vào lợi ích nào ở đó. Nếu có một thái độ hay thực hiện một hành động gay gắt để bảo vệ hay bênh vực lợi ích của người khác, thì đó cũng có thể là một lý do chính đáng. Nhưng, ngài dạy rằng, điều này cho thấy sự cần thiết phải tìm hiểu và học hỏi để đối trị được những cảm xúc của chúng ta. Ngài khuyên người đặt câu hỏi nên tìm hiểu bộ luận “Nhập Bồ Tát hạnh” của đạo sư Shantideva, ở đó luận giải rõ về chủ đề này. Ngài cho biết ngài đã thụ nhận sự luận giải về bộ luận vào năm 1967, đã tụng đọc nhiều lần và đã truyền dạy khoảng 30 đến 40 lần kể từ đó. Ngài cho rằng chương 6 & 8 có những lời dạy đặc biệt hiệu quả, bộ luận có sẵn bản dịch tiếng Tây Tạng và tiếng Anh. Ngài dạy rằng:
"Bộ luận đó không đắt tiền; hãy mua và đọc."
Phúc Cường trích dịch
Nguồn: Dalailama.com
Nền Tảng Căn Bản của một Đời Sống Đạo Đức: Quan Tâm Bản Thân đối đầu với Quan Tâm Người Khác
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ. Đây là tinh túy của cách sống một cuộc đời đạo đức.Mỗi một hành động đều bắt nguồn từ một động cơ. Nếu ta phương hại người khác, điều này bắt nguồn từ một động cơ; và nếu ta giúp đỡ người khác, điều ấy cũng bắt nguồn từ một động cơ. Thế nên, để hỗ trợ hay phục vụ người khác, chúng ta cần một động cơ nào đấy. Vì thế, ta cần các khái niệm nào đó. Tại sao ta lại giúp đỡ và không phương hại người khác?
Thí dụ, khi ta sắp làm hại ai đó, ta có một loại ý thức nào đấy và điều này sẽ khiến ta kềm chế hành động của mình. Điều này có nghĩa là ta cần có một sự quyết tâm [không làm hại cho người khác]. Một góc của tâm thức ta muốn làm hại người nào đó, nhưng vì một trạng thái nào đó của tâm, một phần khác của tâm ta cho rằng điều này là sai trái, là không đúng. Bởi vì ta thấy rằng nó sai, thế nên ta phát triển một ý chí và tự kềm chế mình. Về mặt của hai sự lựa chọn [gây hại hay kềm chế,] chúng ta cần có một sự ý thức rằng những hành vi nào đó sẽ có những hậu quả lâu dài. Là con người, chúng ta có trí thông minh để thấy được những hậu quả dài hạn. Khi ta thấy được chúng, ở một mức độ nhất thời, ta có thể tự kềm chế mình.
Ở đây, có hai cách tiếp cận khác nhau mà ta có thể chọn lựa. Với cách thứ nhất, ta nghĩ theo khía cạnh của sự quan tâm cho bản thân mình, rồi nếu ta có thể giúp đỡ ai đó, ta sẽ hành động; còn nếu không thể giúp, ta sẽ tự kềm chế mình để [không gây ra bất kỳ sự tổn hại nào]. Cách tiếp cận khác là suy nghĩ theo khía cạnh của sự quan tâm về người khác và cũng như vậy, nếu ta có thể giúp họ, ta sẽ giúp; còn nếu không, ta sẽ tự kiềm chế để [không gây hại cho họ]. Về khía cạnh kềm chế để không làm tổn thương người khác, ta sẽ nghĩ: “Nếu mình làm điều này, mình sẽ đối diện với những hậu quả tiêu cực bao gồm những hậu quả về mặt pháp lý” và thế là ta tự kềm chế mình vì lý do này, đó là sự tự chế vì lý do quan tâm đến bản thân mình. Bây giờ, khi suy nghĩ về người khác như một lý do, ta sẽ nghĩ: “Người khác cũng giống như mình. Họ không muốn khổ đau; vì vậy, ta sẽ tránh làm hại họ.”
Khi ta rèn luyện [tâm thức mình], trước tiên, ta nghĩ về bản thân rồi nghĩ đến người khác một cách nhiệt tình. Về mặt hiệu quả, việc nghĩ đến người khác một cách nhiệt tình là điều mãnh liệt hơn. Về phương diện giới Ba La Đề Mộc Xoa – tức biệt giải thoát giới, truyền thống giới luật của sự tu tập trong tu viện – nền tảng chính yếu là suy nghĩ về bản thân mình và vì vậy mà ta tránh việc gây hại cho người khác. Đó là vì ta đang hướng đến mục đích giải thoát. Về mặt tu tập bồ tát hạnh, lý do chính để không phương hại người khác là sự quan tâm đến phúc lợi của tha nhân. Có lẽ điều thứ hai, đó là tránh gây hại và giúp đỡ người khác trên căn bản vị tha, có một sự liên hệ với trách nhiệm phổ quát mà tôi rất thường đề cập đến.
Tính Chất Cơ Bản của Con Người
Nói chung, con người là những động vật xã hội. Bất kể là ai, sự sống còn của người ấy tùy thuộc trên toàn thể cộng đồng nhân loại. Vì sự sống còn và phúc lợi của mỗi cá nhân lệ thuộc vào xã hội, nên nhu cầu nghĩ đến phúc lợi của người khác và quan tâm về nó xuất phát từ bản tính cơ bản của chúng ta. Nếu ta nhìn vào những con khỉ đầu chó, thí dụ thế, con khỉ già hoàn toàn lãnh trách nhiệm cho cả đàn. Trong khi những con khác đang ăn thì con khỉ đực già luôn luôn canh chừng ở bên cạnh chúng. Con thú mạnh hơn sẽ chăm sóc cả đàn vì lợi ích của xã hội loài thú.Trong thời tiền sử, con người chúng ta không có nền giáo dục hay kỹ thuật. Căn bản xã hội con người còn đơn giản: tất cả mọi người cùng lao động và chia sẻ với nhau. Những người cộng sản nói đây là chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy: mọi người cùng làm việc và hưởng thụ với nhau. Rồi cuối cùng, nền giáo dục phát triển và chúng ta có một nền văn mình. Tâm thức [con người] trở nên phức tạp hơn và vì thế, lòng tham tăng trưởng. Điều đó dẫn đến lòng ganh tỵ và thù hận, rồi dần dần, chúng lớn mạnh hơn.
Ngày nay, trong thế kỷ hai mươi mốt, có quá nhiều sự thay đổi đã xảy ra [trong xã hội loài người]. Sự khác biệt giữa chúng ta đã phát triển – [những sự khác biệt về] học vấn, nghề nghiệp và bối cảnh xã hội. Thậm chí có sự khác biệt về tuổi tác và chủng tộc – nhưng tất cả những điều này không quan trọng. Ở mức độ cơ bản, chúng ta vẫn là con người và tất cả đều giống nhau. Đây là mức độ của hàng trăm nghìn năm trước.
Thái độ của trẻ thơ là như thế. Chúng không quan tâm về bối cảnh xã hội, tôn giáo, chủng tộc, màu da hay sự giàu có của những đứa trẻ khác. Chúng cùng nhau nô đùa; chúng là những người bạn chân thật của nhau, cho đến khi nào chúng còn thân thiện với nhau. Bây giờ cứ cho rằng những người lớn như chúng ta thông minh và phát triển cao độ hơn trẻ con, nhưng chúng ta xét đoán bối cảnh xã hội của nhau. Chúng ta tính toán, “Nếu mình mĩm cười thì mình sẽ được những gì mình muốn không; còn nếu mình nhăn mặt thì mình sẽ mất mát điều gì hay không?”
Trách Nhiệm Phổ Quát
Ý nghĩa của trách nhiệm phổ quát hay toàn cầu hoạt động ở mức độ của con người. Chúng ta quan tâm về người khác bởi vì: “Tôi là một người trong nhóm của họ; sự phúc lợi của tôi tùy thuộc vào họ, bất kể giữa tôi và họ có sự khác biệt gì.” Những sự khác biệt luôn luôn hiện diện; nhưng cách suy nghĩ như thế này có thể hữu ích.Trong vài thế kỷ qua, dân số trên hành tinh này chỉ có khoảng một tỷ người; giờ đây đã có hơn sáu tỷ người. Vì dân số quá cao, một quốc gia không thể cung cấp toàn bộ thực phẩm và tài nguyên cho dân chúng trong nước. Thế là chúng ta có kinh tế toàn cầu. Vì thế, với hiện trạng của ngày hôm nay, thế giới đã thu nhỏ lại và các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau rất nhiều. Thực tế là như vậy. Ngoài điều này ra, còn có vấn đề môi sinh: trái đất đang gia tăng nhiệt độ. Đây là một điều đáng quan tâm đối với toàn thể sáu tỷ cư dân của hành tinh này, không chỉ với một hay hai quốc gia. Thực tế mới mẻ này đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm toàn cầu.
Thí dụ vào thời xưa, Anh quốc chỉ nghĩ về nước họ và đôi khi đã khai thác một số vùng đất khác trên trái đất. Họ không lưu ý đến sự quan tâm hay cảm nhận của những người dân ở các vùng này. Vâng, đó là quá khứ. Nhưng bây giờ sự việc đã khác xa; mọi thứ đã thay đổi. Hiện nay, chúng ta phải chăm sóc các quốc gia khác.
Trên thực tế, thật ra những người theo chủ nghĩa đế quốc ở Anh đã làm một số việc tốt đẹp. Họ mang lại nền giáo dục ưu việt bằng Anh ngữ cho Ấn Độ. Ấn Độ sẽ thừa nhận điều này. Anh quốc còn mang lại nền kỹ thuật và hệ thống đường rầy xe lửa. Đó là một trong những phẩm chất bù đắp của quý vị. Khi tôi đến Ấn Độ, một số những người theo chủ nghĩa Gandhi vẫn còn sống và họ góp ý với tôi về các phương pháp bất bạo động của Gandhi. Vào lúc đó, tôi đã nghĩ rằng những người của đế quốc Anh quá xấu xa. Nhưng rồi tôi thấy rằng đã có một nền tư pháp độc lập ở Ấn Độ, tự do ngôn luận, tự do thông tin và v.v… Vì vậy, khi phản ảnh sâu sắc hơn, tôi thấy những điều này quá tốt đẹp.
Ngày nay, có một sự phụ thuộc chặt chẽ giữa các quốc gia và các lục địa. Với hiện trạng này, chúng ta thật sự cần có tinh thần trách nhiệm toàn cầu. Mối quan tâm của bạn lệ thuộc vào sự phát triển và mối quan tâm của người khác. Thế nên, vì sự quan tâm cho bản thân, bạn phải chăm sóc cho người khác. Trên lĩnh vực kinh tế, điều này đã xảy ra. Ngay cả khi chúng ta có những tư tưởng khác biệt và thậm chí khi chúng ta không tin tưởng nhau, chúng ta vẫn phải giao tiếp với nhau trong nền kinh tế tương quan toàn cầu. Vì thế, trách nhiệm toàn cầu dựa trên nền tảng tôn trọng nhu cầu của nhau là điều vô cùng quan trọng.
Ta cần quan tâm đến người khác như anh chị em và phải có một cảm giác gần gũi. Điều này không liên hệ gì với tôn giáo cả. Chúng ta thật sự cần điều này. Ở một mức độ nào đó, ta có khái niệm về “ chúng ta và họ”, - dĩ nhiên ta có thể nói như vậy - nhưng toàn thể thế giới cần tự xem mình như một phần của “chúng ta”. Mối quan tâm của những người láng giềng của ta là sự quan tâm của bản thân ta.
Sự Toại Nguyện
Một cá nhân có một đời sống đạo đức có nghĩa là không gây hại cho ai, và nếu được thì giúp đỡ cho người khác. [Để thực hiện điều này,] nếu ta lấy phúc lợi của người khác làm nền tảng đạo đức cho chính mình – điều này sẽ trở nên một phạm vi đạo đức rộng lớn hơn. Lối sống của chúng ta phải quan tâm đến những yếu tố này.Khoảng cách lớn giữa giàu và nghèo vẫn còn tồn tại, ngay cả ở Hoa Kỳ. Nếu chúng ta nhìn vào Hoa Kỳ, một quốc gia giàu có nhất, nhưng ở đó vẫn có những lỗ hổng của sự nghèo đói. Có một lần tôi đến Washington DC ở Hoa Kỳ, thủ đô của xứ sở giàu nhất, tôi đã thấy nhiều khu dân cư nghèo nàn ở đó. Nhu cầu căn bản của những người sống ở những khu vực này đã không được đáp ứng đầy đủ. [Tương tự như thế,] ở mức độ toàn cầu, nền kỹ nghệ công nghiệp ở phía Bắc phát triển mạnh và giảu có hơn [tất cả các vùng khác trên hành tinh này]; trong khi nhiều quốc gia ở Nam bán cầu còn đang đối đầu với nạn đói. Điều này không chỉ sai sót về mặt đạo đức, mà còn là nguồn gốc của các vấn đề to lớn. Vì vậy, một số quốc gia giàu có nào đó phải nhìn lại và xem xét lối sống của mình; họ nên cảm thấy mãn nguyện với những gì họ có.
Một lần ở Nhật Bản, mười lăm năm trước đây, tôi đã phát biểu với những người Nhật là việc các bạn suy diễn rằng nền kinh tế của bạn phải lớn mạnh và sự tiến bộ vật chất phải xảy ra trong mỗi năm là một sai lầm lớn. Một ngày nào đó, các bạn có thể thấy nền kinh tế của mình trở nên eo hẹp hơn. Bạn phải chuẩn bị tinh thần để khi điều này xảy ra, nó sẽ không trở thành một thảm họa trong tâm tư các bạn. Một vài năm sau đó, tình trạng này đã thật sự xảy ra ở Nhật Bản.
Lối sống của một số người quá xa hoa. Không trộm cắp, không bóc lột, và không lưởng gạt, họ có rất nhiều tiền của. Từ quan điểm về sự quan tâm cho bản thân họ thì không có gì sai trái, miễn là phương tiện thu nhập của họ không trái với đạo đức. Tuy nhiên, từ quan điểm về sự quan tâm đến người khác, mặc dù không có gì sai trai đối với họ; nhưng về khía cạnh đạo đức, đây là điều không tốt đẹp gì khi những người khác phải đối diện với nạn đói. Nếu mọi người đều có cùng lối sống xa hoa thì được; nhưng cho đến khi điều này xảy ra, cách sống tốt hơn mà ta nên áp dụng là [cảm thấy] toại nguyện hơn với những gì mình có. Như tôi đã thấy ở Nhật Bản, Hoa Kỳ và những xã hội giàu có hơn, điều cần thiết ở các nước này là một chút thay đổi về lối sống.
Tại nhiều quốc gia, một gia đình có những hai, đôi khi ba chiếc xe hơi. Hãy tưởng tượng ở Ấn Độ và Trung Hoa, hai quốc gia này có một dân số phối hợp hơn hai tỷ người. Nếu hai tỷ người đòi hỏi hai tỷ chiếc xe hơi hay hơn nữa, điều này sẽ rất khó khăn. Chúng ta sẽ có một vấn đề và khó khăn to lớn về nhiên liệu, tài nguyên thiên nhiên và vật chất, và v.v… Điều này sẽ rất phức tạp.
Quan Tâm về Môi Trường
Một khía cạnh khác về lối sống đạo đức là sự quan tâm đến môi trường, thí dụ như việc sử dụng nước. Sự đóng góp của tôi có thể là ngờ nghệch, nhưng trong nhiều năm qua, tôi không bao giờ tắm trong bồn tắm, mà chỉ tắm bằng vòi hoa sen. Một bồn tắm cần rất nhiều nước. Có thể là tôi ngớ ngẩn, vì mỗi ngày tôi tắm hai lần, vì thế khối lượng nước mà tôi dùng sẽ như nhau. Dù sao đi nữa, về vấn đề đèn điện, thí dụ vậy, tôi luôn luôn tắt đèn khi ra khỏi phòng. Vì vậy, tôi có một sự đóng góp nhỏ cho nền sinh thái. Thế nên một đời sống đạo đức bắt nguồn từ ý thức trách nhiệm toàn cầu.Cách Giúp Đỡ Người Khác
Về việc giúp đỡ người khác như thế nào thì có nhiều cách, phần đông tùy thuộc vào hoàn cảnh. Khi tôi còn trẻ, bảy hay tám tuổi, lúc tôi đang tu học, vị giáo thọ của tôi là Ling Rinpoche luôn luôn giữ một cây roi. Vào lúc ấy, người anh kế của tôi và tôi học chung với nhau. Đúng ra là có hai cây roi, một cây roi màu vàng – cây roi thánh, dành cho vị Đạo Sư thánh nhân. Nếu bạn dùng cây roi thánh, tôi không nghĩ là có bất cứ một cơn đau thánh thiện nào. Việc này có vẻ như một phương pháp khắt khe, nhưng thật ra nó rất hữu hiệu.Nói cho cùng thì một hành động giúp ích hay gây hại tùy thuộc vào động cơ. Phát xuất từ sự quan tâm chân thành cho phúc lợi lâu dài của người khác, các phương pháp có khi khắc nghiệt, có khi nhẹ nhàng. Đôi khi ngay cả một lời nói dối nhỏ nhặt cũng có thể giúp ích. Thí dụ, bạn biết là một người bạn thân, một người cha hay mẹ của một người bạn ở một nước khác có thể đang bệnh nặng hay sắp chết, nhưng bạn biết rằng nếu bạn nói với người bạn là cha hay mẹ của họ sắp chết, họ sẽ rất bối rối và lo lắng và có thể ngất xỉu. Thế nên bạn nói, “Họ không sao.” Nếu bạn một trăm phần trăm không muốn làm cho người kia bối rối, thì trong trường hợp này, nếu như nhìn từ khía cạnh quan tâm cho bản thân mình thì một lời nói dối là trái với đạo lý, nhưng từ quan điểm của người kia, nó có thể là điều thích hợp nhất.
Các Phương Pháp Bạo Động đối đầu với Bất Bạo Động
Thế thì làm thế nào để giúp đỡ người khác một cách hữu hiệu nhất? Điều này không dễ. Chúng ta cần có trí tuệ, cần một ý thức sáng suốt về hoàn cảnh và sự uyển chuyển để sử dụng những phương pháp khác nhau, tùy theo những trường hợp khác nhau. Quan trọng nhất là động cơ của mình: ta cần có sự quan tâm chân thành đối với người khác.Thí dụ, một phương pháp bạo động hay bất bạo động tùy thuộc rất nhiều ở động cơ. Mặc dù một lời nói dối vô hại tự nó là một điều bạo động, nhưng dựa trên động cơ thì nó có thể là một phương tiện giúp đỡ người khác. Vì vậy, theo quan điểm ấy, nó là một phương pháp bất bạo động. Trái lại, vì ta muốn lợi dụng người khác nên ta tặng họ một món quà. Ở bề ngoài, đây là điều bất bạo động; nhưng nói cho cùng thì động cơ của ta là muốn lừa đảo người kia và lợi dụng họ, đó là một phương pháp bạo động. Thế thì bạo động hay bất bạo động tùy thuộc vào động cơ. Tất cả các hành vi của con người đều dựa vào động cơ. Nó cũng một phần nào phụ thuộc vào mục tiêu, nhưng nếu mục đích của ta chỉ là đạt được mục tiêu và động cơ của ta là tâm sân hận, thì đây là điều khó khăn. Vì vậy, nói một cách rối ráo thì động cơ là điều quan trọng nhất.
Hòa Hợp Liên Tôn Giáo
Từ cuộc thảo luận của chúng ta hôm nay, điều quan trọng nhất mà quý vị nên rút tỉa và mang về nhà là hãy cố gắng phát triển tâm bình an. Đây là điều mà chúng ta phải nghĩ đến và cưu mang trong lòng mình. Hơn nữa, nếu có một số người trong đại chúng theo tôn giáo và là tín đồ, một trong những điều mà tôi nhấn mạnh là hãy luôn luôn giữ gìn sự hòa hợp tôn giáo. Tôi nghĩ rằng tất cả các tôn giáo lớn, có thể không kể những tôn giáo nhỏ thờ phượng mặt trời hay mặt trăng, vì họ không có nhiều triết lý, nhưng hầu hết những tôn giáo lớn có một số triết lý hay thần học, và vì các tôn giáo này dựa vào một triết lý nào đó, nó đã được duy trì hàng nghìn năm. Tuy nhiên, bất kể các triết lý khác biệt nhau ra sao, tất cả các tôn giáo đều xem tu tập cao điểm nhất là việc thực hành lòng từ ái và bi mẫn.Với lòng bi mẫn, sự tha thứ sẽ tự động phát sinh, và rồi lòng khoan dung và toại nguyện cũng sẽ phát khởi. Với ba yếu tố này, ta sẽ được hài lòng. Đây là điều thông thường đối với tất cả các tôn giáo. Những điều này cũng quan trọng để mở rộng các giá trị căn bản của con người mà chúng ta đã đề cập đến. Vì vậy, đối với vấn đề này, tất cả các tôn giáo của chúng ta đều hữu ích, vì chúng khuyến khích những điều căn bản tạo dựng nên hạnh phúc, bằng cách hướng dẫn con người sống một cuộc đời đạo đức. Vì tất cả các tôn giáo mang cùng một thông điệp, nên chúng đều có cùng tiềm năng để giúp ích cho nhân loại.
Vào những thời điểm và địa điểm khác nhau, các giáo thuyết khác nhau đã ra đời. Đây là điều cần thiết. Các thời điểm, nơi chốn và cách sống khác nhau xảy ra do sự khác biệt trong môi trường và vì vậy, sự khác biệt về tôn giáo bắt đầu phát triển. Các ý tưởng tôn giáo nào đó thích hợp cho mỗi một thời điểm khác nhau, vì thế, chúng [đã được con người vào thời đó tiếp nhận]. Vì vậy, mỗi một tôn giáo tồn tại hàng nghìn năm có những truyền thổng riêng của họ. Chúng ta cần có các truyền thống đa dạng phong phú này, vì chúng phục vụ cho những loại người khác nhau. Một tôn giáo không thể phù hợp và đáp ứng nhu cầu cho tất cả.
Vào thời Đức Phật tại thế, đã có nhiều truyền thống khác với Phật giáo ở Ấn Độ. Đức Phật không hề có ý cải đạo toàn thể dân Ấn Độ theo đạo Phật. Các tôn giáo khác cũng tốt thôi. Thỉnh thoảng, họ có những cuộc tranh luận với nhau. Đặc biệt là sau thời của Đức Phật, các đạo sư đã tranh luận với nhau qua nhiều thế kỷ. Những cuộc tranh luận này rất hữu ích, đặc biệt là trong lĩnh vực tri thức luận. Một học giả từ một truyền thống nào đó sẽ khảo sát triết lý và quan điểm của một tôn giáo khác một cách gắt gao, và điều này khiến cho mọi người suy tư về tôn giáo của mình, về truyền thống và cách tranh luận của họ. Điều này tự nhiên sẽ đưa đến sự tiến triển. Trong vài trường hợp, có lẽ các cuộc tranh luận này đã tạo ra một chút bạo động và đó là điều không may; nhưng nói chung, việc tranh luận là một sự phát triển lành mạnh.
Ấn Độ là một thí dụ rất tốt về sự bao dung đối với tôn giáo như một truyền thống, trải qua bao nhiêu thế kỷ, và nó vẫn sống động ở quốc gia này. Đây là một mô hình tốt cho cả thế giới.
Vào thời xưa, con người sống cô lập và như vậy cũng tốt thôi, nhưng bây giờ chúng ta đã sống trong một hoàn cảnh khác. Thí dụ ở Luân Đôn – hầu như đó là một xã hội đa tôn giáo. Thế thì sự bao dung đối với các tôn giáo rất quan trọng. Vì vậy, đối với những ai có niềm tin với một tôn giáo, thì sự hòa hợp và khoan dung rất quan trọng. Khi nào các bạn có cơ hội, xin hãy góp phần vào lĩnh vực này.
(Nguồn: Viện Lưu Trữ Phật Pháp Berzin)
Rasoul Sorkhabi
HT Thích Trí Chơn dịch
LỜI GIỚI THIỆU - Năm 2005 đánh dấu kỷ niệm năm sinh nhật lần thứ 70 của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Liên Hiệp Quốc cũng tuyên bố 2005 là năm Vật Lý của thế giới và người đã được vinh danh là ông Albert Einstein, nhà đại khoa học phát minh ra Thuyết Tương Đối năm 1905 (cách nay 100 năm) đã từ trần năm 1955 (đúng 50 năm trước). Đây là cơ duyên thuận lợi để chúng ta tìm hiểu tại sao có sự trùng hợp, gặp gỡ giữa hai nhân vật lịch sử vĩ đại này trong thời đại của chúng ta hôm nay, một nhân vật là khoa học gia Tây Phương nổi tiếng và người kia là vị lãnh đạo Phật Giáo mà khắp thế giới đều tôn kính, đã nêu lên một hình ảnh ý nghĩa về sự hợp nhất giữa khoa học và tôn giáo.
GHI CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH - Rasoul Sorkhabi là giáo sư tại Học Viện Nghiên Cứu Năng Lượng và Khoa Địa Chất thuộc Đại Học Utah (Salt Lake City), nơi ông đang sống với người vợ Nhật và cô con gái. Giáo Sư đã thực hiện chương trình nghiên cứu rộng rãi về địa chất ở vùng núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalayas). Bài viết gần đây của giáo sư là “Einstein và Tâm Hồn người Ấn Độ: Tagore, Gandhi và Nehru” đăng trên tạp chí “Current Science” do viện Hàn Lâm Khoa Học Ấn Độ (Indian Academy of Science) ấn hành.
Nhiều năm qua, nhà khoa học Albert Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ảnh hưởng thu hút tôi rất nhiều. Khi đọc tiểu sử và tác phẩm của hai nhân vật này mà tôi nhận thấy có nhiều sự tương đồng ý nghĩa về cá tính và hoạt động của họ đã chiếu sáng trên mối quan hệ giữa lý trí và tinh thần mà cả hai lãnh vực đều cần thiết cho xã hội và đời sống con người.
Phật Giáo lẫn Khoa Học chủ trương người đi tìm đạo lý hay các định lý khoa học cần dựa vào trí tuệ và kinh nghiệm của chính bản thân họ. Nhà tôn giáo lẫn khoa học không thể tin tưởng một cách mù quáng. Mọi lý thuyết trình bày chỉ có giá trị khi được chứng nghiệm bằng sự tu tập của vị tu sĩ và chứng minh cụ thể của nhà khoa học.
Đặc biệt trong các bài viết cũng như thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà khoa học Einstein, là những ý tưởng đều xuất phát từ tâm thức và kinh nghiệm bản thân của họ. Khi viết bài này thì cuốn sách đầu tiên để trên bàn tôi đang đọc là tác phẩm “Phật Giáo Tây Tạng và Chìa Khoá Dẫn Đến Trung Đạo” (The Buddhism of Tibet and the Key to the Middle Way) do Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 viết ấn hành năm 1975. Tôi được tặng cuốn sách này vào năm 1982 khi tôi và vợ tôi là Setsuko từ Nhật Bản lần đầu tiên đến Ấn Độ gặp ngài tại thành phố Dharamsala. Tôi cũng đã được đọc tác phẩm của Einstein: “Đại Cương và Đặc Biệt Thuyết Tương Đối” (Relativity: The Special and the General Theory) ấn hành năm 1952.
Hai cuốn sách đều mang tính cách chuyên môn và cả hai tác phẩm đều chịu ảnh hưởng tư tưởng của những người đi trước, nhưng điều đặc biệt thú vị là bút pháp của họ đều giống nhau - giải thích các chủ đề khó hiểu bằng lối diễn đạt rõ ràng, chính xác với ngôn ngữ bình dị và đã trình bày được ngay chính tư tưởng của hai tác giả. Mặc dù sự liên hệ giữa khoa học và tôn giáo là một đề tài hóc búa, phức tạp và gay go, nhưng cả hai khoa học gia Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều phát biểu rằng, tôn giáo và khoa học có thể hợp tác, chung sống và đóng góp lợi ích cho sự tiến bộ, phát triển của xã hội con người. Tôn giáo và khoa học thuộc hai lãnh vực kiến thức và thực hành khác nhau, tuy nhiên cả hai đều do nỗ lực của con người và cần thiết cho sự thăng hoa cuộc sống nhân sinh.
Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là nhà tôn giáo theo trào lưu chính thống, duy trì lòng tin cổ truyền vào kinh điển mà ngài cũng đề cao giá trị của nền khoa học hiện đại và tin tưởng rằng tất cả các truyền thống tôn giáo khác nhau đều giúp ích cho nhân loại. Ông Einstein không phải là nhà toán học thiển cận, không nghĩ đến sự phát triển tinh thần và đời sống tâm linh. Trong tác phẩm: “Những năm cuối cùng của đời tôi” (Out of My Later Years), ấn hành năm 1950, tiên sinh viết:
“Tất cả các tôn giáo, nghệ thuật và khoa học là những cành nhánh chung của một thân cây. Những khát vọng này đều nhằm hướng đến sự thăng hoa đời sống của kiếp người, giúp con người vượt khỏi thể giới thuần tuý vật chất và hướng dẫn cá nhân đến sự tự do và giải thoát”.
Trong cùng cuốn sách trên, Einstein cũng xác nhận rằng khoa học thực sự đã giúp cho mục tiêu của tôn giáo, vì khoa học đã dạy cho chúng ta hiểu biết về sự hoà hợp, tương quan và tương duyên của thế giới cũng như kiến thức khoa học về vũ trụ bao la huyền bí này:
“Mỗi ngày hằng trăm lần tôi tự nhắc nhở để thấy rằng đời sống nội tâm và ngoại giới của tôi được xây dựng căn bản trên sức lao động của những kẻ khác và tôi phải cố gắng đáp đền trả ơn lại cho họ, những người mà tôi đã và đang nhận sự giúp đỡ”.
Đây là những lời nói của Einstein. Chia xẻ với ý tưởng này, Đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu sự tương quan tương duyên phụ thuộc vào nhau của vạn vật, con người và các biến cố xảy ra trên thế gian là ý niệm căn bản của nền khoa học hiện đại và tư tưởng Phật Giáo.
Trong lời phát biểu khi nhận giải Nobel Hoà Bình, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói:
“Chúng ta tùy thuộc vào nhau trong mọi sinh hoạt của đời sống. Chúng ta không thể tồn tại khi sống tách rời khỏi xã hội và không biết gì về các sự việc xảy ra bên ngoài cộng đồng của nhân loại. Khi gặp những khó khăn, chúng ta cần giúp đỡ lẫn nhau cũng như nên chia xẻ nguồn vui của chúng ta cho những kẻ khác”.
Về mặt triết lý, lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma phản ảnh lý “Nhân Duyên Sinh” của Phật Giáo.
Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyên dạy chư Tăng không nên có tâm ích kỷ và đắm say của cải vật chất. Ngài đã từng nói: “Tôi chỉ là một nhà sư tầm thường”. Howard Cutler, người cùng chung với ngài viết tác phẩm “Nghệ Thuật Đạt Đến Hạnh Phúc” (The Art of Happiness) bảo rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma không biết cuốn sách đó đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất (bestseller) tại vùng Bắc Mỹ.
Ông Einstein cũng có tâm hồn vị tha hay giúp đỡ mọi người. Một trong những tiểu luận nổi tiếng của ông nhan đề “Thế Giới như Tôi Nhìn Thấy Nó” (The World As I See It) ấn hành năm 1931, Einstein đã viết:
“Tôi tin rằng một đời sống giản dị không xa hoa cầu kỳ là rất tốt, hữu ích cho mọi người cả hai phương diện thể xác lẫn tinh thần. Ba mục tiêu mà nỗ lực của con người nhắm đến là của cải, tiền bạc và giàu sang, đối với tôi trở thành vô nghĩa”.
Ông đã thực hành những điều ông nói. Chẳng hạn, Einstein đã dùng hết số tiền 30.000 (ba chục nghìn) đô la ông được thưởng trong giải Nobel Vật Lý năm 1921 để giúp đỡ cho bà vợ đầu tiên và mấy đứa con của bà, mặc dù lúc bấy giờ ông đã lập gia đình với người khác.
Einstein đoạt giải Nobel Vật Lý năm 1921, và Đức Đạt Lai Lạt Ma được giải Nobel Hoà Bình năm 1989. Hơn nữa, Einstein cũng là nhân vật tích cực vận động cho nền hoà bình thế giới; yêu cầu hủy diệt các loại võ khí nguyên tử cũng như đòi hỏi quyền làm người, tự do và dân chủ phải được thực hiện tại nhiều quốc gia. Cuộc đời của ông luôn luôn tranh đấu chống bạo động, chiến tranh, chủ nghĩa phát xít và kỳ thị chủng tộc. Vị anh hùng chính trị mà Einstein tôn sùng nhất là Thánh Gandhi của Ấn Độ. Tháng 4 năm 1955, cùng với đại triết gia người Anh, Bertrand Russell, cả hai ông đã phổ biến một bản tuyên ngôn chung, kêu gọi các nhà lãnh đạo trên thế giới nên giải quyết các cuộc khủng hoảng chính trị bằng phương pháp hoà bình.
Gần đây trong một cuộc phỏng vấn, tôi có nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời cho biết rằng nếu có thể, Ngài phát nguyện vào ở một ngôi chùa và sẽ dành hết thì giờ cho việc tu thiền. Điều này khiến tôi nhớ lại lời ông Einstein bảo rằng:
“Công việc của người trông coi ngọn hải đăng thực lý tưởng cho nhà khoa học, vì họ có nhiều thì giờ rãnh để suy nghĩ và làm việc”.
Nơi khác, tiên sinh Einstein ghi nhận rằng cuộc đời của ông được phân chia thành giữa “các phương trình và chính trị” nhưng “các phương trình thì sẽ vĩnh viễn tồn tại lâu dài”.
Cả hai ông Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều mất tổ quốc. Năm 1933 Einstein trốn thoát chế độ Phát Xít Đức Quốc Xã sang định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1959, Trung Cộng đánh chiếm xâm lăng Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma bỏ nước trốn qua tị nạn ở Ấn Độ. Tôi nghĩ kinh nghiệm cuộc sống bản thân của mỗi người này đã giúp cho cả hai nhân vật (Einstein trong cộng đồng người Do Thái và Đức Đạt Lai Lạt Ma trong xã hội các Phật tử Tây Tạng), khi ở xứ người, nhận thấy rõ giá trị của sự đóng góp về khoa học, tôn giáo cũng như lịch sử dân tộc của họ vào các nền văn hoá đa dạng của nhân loại trên thế giới.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thường bảo rằng cuộc sống tị nạn lưu vong đã giúp Ngài có cơ hội tốt để gặp gỡ, tiếp xúc với mọi người đủ thành phần tại nhiều quốc gia và nhờ đó mà Ngài đã nhận thức được rằng:
“Tất cả chúng ta ai cũng muốn sống có hạnh phúc chứ không thích khổ đau”.
Einstein sinh năm 1879 trong một gia đình Do Thái tại Đức Quốc. Đức Đạt Lai Lạt Ma ra đời năm 1935 trong một gia đình nông dân tại quận Amdo ở Tây Tạng. Tiểu sử của hai nhân vật hoàn toàn khác nhau, nhưng tại sao chúng ta nhận thấy có nhiều điểm tương đồng về cá tính và hành động giữa hai con người đặc biệt này? Câu trả lời của tôi là vì cả ông Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều đã sống vượt lên trên những thành kiến, cố chấp về tôn giáo cũng như các chủ nghĩa phát xít, quốc gia và duy vật v.v.
Trái lại cả hai đã sống, hành động vì nền hoà bình thế giới, tình yêu thương nhân loại, và phục vụ cứu giúp tất cả mọi người với tấm lòng vị tha. Trong bài nói chuyện với các sinh viên trường Cal Tech năm 1931, Einstein đã phát biểu:
“Tôn giáo và khoa học có thể cùng chung đóng góp cho lợi ích của con người”.
Các giải Nobel đã trao tặng cho khoa học gia Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma là biểu tượng cho hai đỉnh cao của tình nhân loại và trí tuệ con người mà hai đại nhân vật lịch sử này đã thành tựu đạt tới qua những phương cách hành động khác nhau. Và từ đỉnh cao đó, ánh sáng rực rỡ của tình thương và sự hiểu biết tuyệt vời của con người đã chiếu toả xuống khắp vạn vật ở trần gian.
Trích tạp chí Phật Giáo “Mandala” số tháng 6 & 7 năm 2005.
Đức Dalai Lama thứ Mười Bốn
Nantes, Pháp, 15 tháng Tám 2008
Alexander Berzin sao chép và hiệu đính sơ
Tinh Thần và Thể Xác Bất An
Hòa bình là sự quan tâm của mỗi người, cho dù họ sống ở phương Tây, phương Đông, Nam hay Bắc. Dù giàu hay nghèo, mọi người cần có sự quan tâm thật sự đối với hòa bình. Chúng ta đều là con người và vì thế, nói chung, chúng ta đều có cùng một mối quan tâm, đó là làm sao có được sự an lạc và đời sống hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều xứng đáng có một đời sống an lạc. Ở đây, ta đang bàn luận ở mức độ mà mọi người có cảm giác về “tôi” hay “tự ngã”, nhưng ta không thấu hiểu “ tôi” hay “tự ngã” là gì. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có một cảm giác mạnh mẽ về “tôi”. Cảm giác ấy đưa đến sự khao khát hạnh phúc và không muốn khổ đau. Cùng với cảm giác này, ước muốn được hạnh phúc và thoát khổ tự động phát sinh. Dựa trên nền tảng này, chúng ta đều có quyền hưởng hạnh phúc.
Trong khi đó thì có nhiều điều bất toại nguyện và chướng ngại chực chờ xảy ra trong đời sống của chúng ta. Có hai phạm trù trong vấn đề này. Một phạm trù thuộc về đau đớn do những nguyên nhân thể chất, thí dụ bệnh tật và tuổi già. Chính tôi cũng đã có một vài kinh nghiệm về điều này – tôi gặp khó khăn trong việc nghe, thấy và đi lại. Những điều này sẵn sàng xảy ra. Phạm trù khác chủ yếu là ở cấp độ tinh thần. Nếu ở cấp độ vật chất, mọi việc đều thoải mái, xa hoa và đầy đủ, nhưng nếu chúng ta vẫn có sự căng thẳng và hoài nghi về chính mình, ta sẽ thấy cô đơn. Ta có sự ganh tỵ, sợ hãi và thù hận, rồi ta không được vui. Thế nên, dủ cho tình trạng vật chất ra sao, trên cấp độ tinh thần, chúng ta vẫn có thể khổ tâm.
Để có sự thoải mái về vật chất, đúng là ta có thể dùng tiền để giảm thiểu một vài nỗi khổ và mang lại sự thỏa mãn về vật chất. Tuy nhiên phương diện vật chất, kể cả quyền lực, tên tuổi và tiếng tăm, vẫn không có thể mang lại sự bình an nội tại cho chúng ta. Trên thực tế, đôi khi có quá nhiều tiền của và giàu sang chỉ tạo ra thêm nhiều lo lắng cho chính mình. Chúng ta có thể quá lo lắng về tên tuổi và danh vọng của mình, điều này đưa đến thái độ đạo đức giả, sự bất an và căng thẳng. Thế nên sự an lạc tinh thần không quá phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài, mà vào cách ta suy nghĩ trong nội tâm.
Ta có thể thấy rằng có một số người tuy nghèo nàn, nhưng trên bình diện nội tâm, họ rất kiên cường và hạnh phúc. Trên thực tế, nếu ta cảm thấy thỏa mãn trong lòng, thì ta có thể chịu đựng bất cứ nỗi khổ, khó khăn vật chất nào và chuyển hóa chúng. Vì vậy, giữa nỗi khổ của thể xác và tinh thần, tôi nghĩ nỗi khổ tinh thần nghiêm trọng hơn. Lý do là vì sự an lạc tinh thần có thể xoa dịu khó khăn về vật chất, nhưng thỏa mãn vật chất không thể loại trừ nỗi khổ tinh thần.
Những rắc rối về mặt tinh thần và vấn đề của con người mạnh mẽ và nghiêm trọng hơn những vấn đề này đối với thú vật. Ở phạm vi thể chất, có lẽ nỗi khổ của cả hai đều như nhau, nhưng khi nói đến con người, vì trí thông minh của mình, ta có những sự nghi ngờ, bất an và căng thẳng. Những điều này đưa đến chứng trầm cảm; và tất cả những sự việc này xảy ra chỉ vì trí thông minh siêu việt của chúng ta. Để ngăn chận điều này, ta cũng phải dùng trí thông minh của mình. Về mặt cảm thọ, ngay lúc vừa phát sinh, một số cảm xúc đã khiến cho ta mất sự an lạc. Trái lại, một số cảm xúc lại giúp cho ta mạnh mẽ hơn. Chúng là nền tảng của sức mạnh, tự tin, đưa chúng ta đến một tâm thức bình an, tĩnh lặng hơn.
Hai Phạm Trù của Cảm Xúc
Thế thì có hai phạm trù của cảm xúc. Một loại rất có hại cho tâm thức an lạc và đây là những cảm xúc tàn phá như giận dữ, thù hận. Chúng không chỉ hủy diệt sự an lạc của ta ngay trong khoảnh khắc này, mà chúng còn tạo ra rất nhiều tai hại cho cơ thể và lời nói của ta. Nói một cách khác, chúng ảnh hưởng đến hành động của ta. Chúng khiến ta gây ra tổn hại và vì thế, chúng là những cảm xúc tiêu cực. Tuy nhiên, những cảm xúc khác như lòng bi mẫn cho ta niềm an lạc và sức mạnh nội tâm. Ví dụ, chúng mang đến cho ta năng lực tha thứ. Ngay cả khi ta gặp rắc rối với ai vào một lúc nào đó, sự tha thứ cuối cùng sẽ hướng ta đến sự tĩnh lặng, để có được tâm an lạc. Thậm chí người mà chúng ta vô cùng tức giận có thể trở thành bạn thân của mình.
Hòa Bình Ngoại Tại
Khi ta nói đến hòa bình, ta phải đề cập đến những cảm xúc và bình an nội tại. Thế nên ta phải nhận diện những cảm xúc nào đem lại sự bình an nội tại. Tuy nhiên, trước hết, tôi muốn nói một vài điều về hòa bình ngoại tại.
Hòa bình bên ngoài không chỉ đơn thuần là sự vắng bóng của bạo động. Có lẽ trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, rõ ràng là chúng ta có hòa bình, nhưng nền hòa bình ấy được căn cứ trên sự sợ hãi, lo ngại về sự hủy diệt hàng loạt của chiến tranh nguyên tử. Đôi bên đều sợ phía bên kia ném bom vào nước họ, thế nên, đây không phải là hòa bình thật sự. Nền hòa bình chân thật phải xuất phát từ sự bình an trong nội tâm. Mỗi khi có sự xung đột, tôi cảm thấy rằng chúng ta phải tìm một giải pháp an hòa và có nghĩa là ta cần có sự đối thoại. Thế nên hòa bình liên quan rất nhiều với sự nồng hậu và tôn trọng đời sống của người khác, tránh làm tổn hại cho tha nhân, với quan niệm rằng đời sống của người khác cũng thiêng liêng như của chính mình. Chúng ta cần tôn trọng điều này, và trên cơ sở ấy, nếu ta cũng có thể giúp đỡ người khác, thì ta nên nỗ lực hoạt động.
Khi chúng ta đối diện với khó khăn và ai đó ra tay giúp đỡ mình, dĩ nhiên chúng ta cảm kích điều ấy. Nếu người nào khác đang đau khổ và chúng ta chỉ cần mở rộng sự cảm thông giữa con người với nhau thôi, người ấy cũng sẽ cảm kích điều này và cảm thấy rất hạnh phúc. Thế thì nhờ có lòng bi mẫn và bình an nội tại mà tất cả mọi hành vi trở nên an hòa. Nếu ta có thể thiết lập được tâm bình an, thì ta cũng có thể đem lại hòa bình ngoại tại.
Là con người, chúng ta luôn luôn có những quan điểm khác nhau trong sự giao tiếp với nhau. Tuy nhiên, căn cứ trên những khái niệm manh mẽ về “tôi” và “họ”, rồi thì thêm vào đó, chúng ta có những quan niệm về “quyền lợi của tôi” và “quyền lợi của bạn”. Trên căn bản ấy, thậm chí ta có thể lâm vào chiến tranh. Ta nghĩ rằng sự điêu tàn của kẻ thù sẽ mang lại chiến thắng cho mình. Thế nhưng, hiện nay lại có một thực tại mới. Chúng ta có một sự tương quan chặt chẽ với nhau về quan điểm sinh thái và kinh tế. Thế nên, những khái niệm về “chúng ta” và “họ” không còn thích hợp nữa. Những người mà ta xem như “họ”, bây giờ trở nên một thành phần của “chúng ta.” Vì vậy, nhân tố chính để phát triển sự bình an trong tâm thức là lòng bi mẫn, căn cứ trên sự thừa nhận rằng chúng ta là sáu tỷ người trên hành tinh này, và tất cả mọi người đều có quyền hưởng thụ sự an lạc hạnh phúc. Căn cứ vào điều này, chúng ta tiếp nhận mọi người một cách nghiêm chỉnh, và trên cơ sở ấy, ta có thể thiết lập một nền hòa bình ngoại tại.
Khởi Đầu ở Mức Độ Thấp
Thế thì vì hòa bình, chúng ta cần phải phát triển tâm an lạc cho chính mình, rồi cho gia đình của mình và tiếp đến, cho cộng đồng của mình. Thí dụ, ở Mễ Tây Cơ, một người bạn của tôi đã phát triển một “Vùng Hòa Bình” trong cộng đồng của ông ấy. Ông thiết lập điều này với sự thỏa hiệp của mọi người trong cộng đồng của ông. Mọi người đều đồng ý cố gắng tránh bạo động trong Vùng Hòa Bình này. Nếu họ phải đấu tranh hay bất đồng ý kiến, họ đều chấp thuận sẽ ra khỏi ranh giới của vùng ấy. Điều này rất tốt.
Việc đòi hỏi hòa bình cho thế giới là một việc khó khăn, mặc dù cuối cùng ở cấp độ hoàn cầu, đây là điều tốt nhất. Tuy nhiên, việc thực tiễn hơn là ta bắt đầu ngay bây giờ, ở một mức độ thấp với chính mình, với gia đình, cộng đồng, cấp quận và v.v… bằng cách thiết lập những khu vực như vùng hòa bình. Thế thì sự bình an nội tại liên quan đến lòng bi mẫn rất nhiều.
Thật ra mọi việc hiện nay đang thay đổi rất nhiều trên thế giới. Tôi nhớ vài năm trước đây, một người bạn người Đức của tôi, ông Friedrich von Weizsäcker đã quá cố, người mà tôi xem như một vị thầy của mình, đã nói với tôi rằng, khi ông còn trẻ, từ nhãn quan của mỗi một người Đức, họ xem người Pháp như kẻ thù, và từ nhãn quan của mỗi một người Pháp, thì người Đức là kẻ thù của họ. Nhưng sự việc giờ đây đã khác. Hiện nay, chúng ta đã có một lực lượng thống nhất, đó là Liên Hiệp Âu châu. Điều này tốt đẹp vô cùng. Trước đây, mỗi quốc gia, từ quan điểm của riêng họ, xem chủ quyền của mình vô cùng quý giá. Nhưng giờ đây đã có một thực tại mới ở Âu châu; quyền lợi chung trở nên quan trọng hơn quyền lợi riêng của một cá thể. Nếu kinh tế cải thiện, mỗi quốc gia thành viên đều hưởng lợi. Vì thế, hiện nay, điều quan trọng là mở rộng tư tưởng này đến sáu tỷ người trên hành tinh này. Chúng ta cần nghĩ đến mỗi người như thành viên của một gia đình nhân loại to lớn.
Tâm Bi như một Nhân Tố Sinh Học
Nói về lòng bi mẫn, tất cả những động vật có vú đều được sinh ra từ những bà mẹ và v.v... - sự phát triển của chúng tùy thuộc vào việc tiếp nhận sự thương yêu và chăm sóc của mẹ. Điều này là sự thật, ngoại trừ một vài chủng loại như rùa biển, bươm bướm, cá hồi, vì chúng chết sau khi đẻ trứng - những loài vật này có một chút ngoại lệ. Ví dụ về rùa biển. rùa mẹ đẻ trứng trên bờ biển và sau đó bỏ đi; thế nên sự sống còn của những con rùa con hoàn toàn tùy thuộc vào nỗ lực của riêng chúng.
Chúng không cần tình cảm của bà mẹ mà vẫn tồn tại. Vì vậy, tôi nói với một số thính chúng rằng ta sẽ có một cuộc thí nghiệm khoa học rất thú vị, khi một trứng rùa nở, ta để rùa con và rùa mẹ bên cạnh nhau để xem chúng có tình cảm với nhau hay không. Tôi không nghĩ là chúng sẽ bộc lộ tình cảm với nhau. Thiên nhiên đã tạo ra chúng như thế, nên chúng không cần có tình cảm giữa mẹ con. Nhưng đối với những động vật có vú, đặc biệt là con người, nếu không có sự chăm sóc của bà mẹ, thì tất cả chúng ta đều sẽ chết.
Việc chăm sóc một đứa bé đòi hỏi một số cảm xúc, đó là lòng bi mẫn, thương yêu và sự quan tâm, chăm sóc. Các nhà khoa học nói rằng trong khoảng thời gian vài tuần lễ sau khi ra đời, sự tiếp xúc với người mẹ là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển não bộ của đứa bé. Chúng ta để ý rằng những đứa bé sống trong một gia đình ấm cúng, đầy tình cảm và yêu thương, có khuynh hướng vui vẻ hơn. Thậm chí chúng khỏe mạnh hơn về mặt thể chất. Còn những đứa bé thiếu sự yêu thương, đặc biệt là khi chúng còn nhỏ, có khuynh hướng gặp nhiều khó khăn.
Một số nhà khoa học đã từng làm các thí nghiệm bằng cách tách rời những con khỉ con khỏi mẹ chúng, và họ nhận xét rằng những con khỉ con ấy luôn luôn không được vui và hay đánh nhau. Chúng không nô đùa vui vẻ với nhau. Còn những khỉ con được giữ bên cạnh mẹ thì vui tươi và nô đùa vui vẻ với nhau. Và đặc biệt là trẻ con khi thiếu tình cảm lúc thơ ấu thì chúng có khuynh hướng trở nên lạnh lùng. Chúng gặp khó khăn trong việc biểu lộ tình cảm đối với người khác, và trong nhiều trường hợp, chúng trở nên hung bạo với người xung quanh. Vì thế mà tình cảm là một nhân tố sinh học, một nhân tố sinh học căn bản.
Hơn nữa, tôi nghĩ vì lòng bi và các cảm xúc liên hệ đến phạm vi sinh học vật lý của con người, theo một số nhà khoa học cho biết, nếu chúng ta có sự giận dữ, thù hằn và sợ hãi liên tục, điều này sẽ ăn mòn hệ thống miễn nhiễm của chúng ta và nó trở nên yếu ớt hơn. Tuy nhiên, lòng từ bi thì hỗ trợ và tăng cường hệ thống miễn nhiễm của chúng ta.
Lấy một thí dụ khác nữa. Nếu chúng ta nhìn trên lãnh vực y học, nếu có sự tin tưởng giữa các y tá, bác sĩ và các bệnh nhân, thì đây là điều quan trọng đối với sự cải thiện sức khỏe của bệnh nhân. Thế thì nền tảng của sự tin tưởng là gì? Nếu về phía bác sĩ và y tá có một sự quan tâm chân thành và chăm sóc cho bệnh nhân sớm bình phục, thì người bệnh sẽ có sự tin tưởng. Trái lại, thậm chí khi bác sĩ là một nhà chuyên môn, nhưng nếu họ đối xử với bệnh nhân như những cái máy, thì người bệnh sẽ có rất ít tin tưởng. Có thể nếu bác sĩ có kinh nghiệm dồi dào, thì cũng có một sự tin tưởng nào đấy, nhưng nếu bác sĩ có lòng từ bi hơn, thì bệnh nhân sẽ có nhiều tin tưởng hơn nữa. Bệnh nhân sẽ có giấc ngủ tốt hơn và ít lo âu hơn. Nếu họ bị giao động ở một mức độ sâu hơn, thì tâm trí họ sẽ rối loạn và điều này ảnh hưởng đến sự bình phục sức khoẻ của họ.
Tuy nhiên, ta không thể tránh khỏi những nan đề trong cuộc sống. Ngài Tịch Thiên (Shantideva), một đạo sư vĩ đại của Phật giáo Ấn Độ, đã khuyên rằng khi đối diện với các vấn đề, chúng ta cần phải phân tích chúng. Nếu ta có thể vượt qua vấn đề bằng một phương pháp nào đó, thì ta không cần lo lắng và chỉ việc áp dụng phương pháp đó là xong. Nhưng nếu ta không thể giải quyết được vấn đề, thì cũng không cần phải lo lắng, vì việc này sẽ không có ích lợi gì cho ta cả. Suy tư về điều này là một việc hữu ích lớn. Ngay cả khi chúng ta có một vấn đề lớn, ta có thể làm cho nó nhỏ lại, nếu chúng ta suy nghĩ theo cách này.
Ngày nào chúng ta còn cần sự chăm sóc của người khác, ví dụ như khi ta là trẻ thơ, ta có được sự thương yêu và bi mẫn từ người lớn. Nhưng khi ta trở nên độc lập hơn khi đã trưởng thành, ta có khuynh hướng cho rằng, để đạt được ý muốn của mình thì sự gây hấn quan trọng hơn lòng bi mẫn. Nhưng tất cả sáu tỷ con người đều được sanh ra từ những bà mẹ. Mọi người có được hạnh phúc và toại nguyện nhờ sự chăm sóc bằng tình thương của mẹ, hay nếu không phải là mẹ, thì cũng là tình thương của ai đấy khi chúng ta là những đứa bé. Tuy nhiên, dần dần, những phẩm chất trở này nên ít ỏi hơn khi chúng ta lớn lên, rồi ta có khuynh hướng xung đột, vì sự bắt nạt xảy ra nhiều hơn, và chúng ta tạo ra nhiều vấn đề hơn.
Thấy Được Thực Tại là Điều Tất Yếu
Khi ta nổi giận và não bộ bị sự sân hận khống chế, một nhà khoa học ở Thụy Điển đã nói với tôi rằng, 90% sự biểu hiện của con người ghê gớm mà chúng ta đang giận hờn là một sự phóng chiếu tinh thần. Nói cách khác, 90% của sự tiêu cực là do tâm ta phóng chiếu mà ra. Điều này cũng tương tự như khi chúng ta có sự luyến ái và khát khao mạnh mẽ đối với một người nào đấy, thì ta thấy người này xinh xắn và đẹp đẽ 100%. Nhưng phần lớn của 100% ấy cũng là một sự phóng chiếu tinh thần, chứ ta không nhìn thấy thực tại. Vì vậy, thấy được thực tại là điều vô cùng quan trọng.
Còn một điểm quan trọng khác, đó là không ai muốn bị rắc rối, nhưng tại sao vấn đề lại phát sinh? Đó là vì sự ngây thơ, mê lầm và cách tiếp cận của chúng ta, vì ta không thấy được thực tại. Từ những quan điểm hạn hẹp của mình, ta không nhìn thấy toàn bộ bức tranh của thực tại. Chúng ta chỉ thấy hai chiều, nhưng như thế thì không đủ. Ta cần có khả năng thấy được sự vật trong ba, bốn hay sáu chiều. Trước tiên, chúng ta cần giữ tâm tĩnh lặng, để khảo sát sự việc một cách khách quan.
Ở đây cũng thế, sự khác nhau giữa các cảm xúc xây dựng và phá hoại là điều quan trọng để ta có thể thấu hiểu tất cả những điểm này. Khi chúng ta trưởng thành, dần dần, những nhân tố sinh học của tâm bi biến mất, nên chúng ta cần sự giáo dục và rèn luyện tâm bi để ủng hộ nó một lần nữa. Tuy nhiên, tâm bi thuộc về yếu tố sinh học thì có sự thiên vị, vì nó căn cứ trên sự tiếp nhận tình thương yêu của người khác. Tuy nhiên, nếu ta sử dụng điều này như nền tảng, rồi bổ sung thêm các yếu tố lý lẽ và khoa học từ sự khảo sát của mình, thì ta sẽ không chỉ duy trì bi tâm ở mức độ sinh học này, mà còn có thể làm cho nó tăng trưởng hơn nữa. Thế nên, với sự rèn luyện và giáo dục, tâm bi thiên vị hạn hẹp có thể trở thành lòng bi mẫn vô hạn không thiên vị, mở rộng cho sáu tỷ con người và hơn thế nữa.
Tầm Quan Trọng của Học Vấn
Học vấn là chìa khóa cho tất cả những điều nêu trên. Nền học vấn hiện đại chú ý đến sự phát triển của bộ não và trí tuệ, nhưng điều này không đủ. Ta còn cần phải phát triển sự nồng hậu trong hệ thống học vấn nữa. Ta cần áp dụng điều này, bắt đầu từ nhà trẻ cho đến trường đại học.
Ở Hoa Kỳ, một số nhà khoa học đã phát triển các chương trình giáo dục để rèn luyện thiếu nhi phát triển thêm lòng bi mẫn và chánh niệm. Điều này không nhắm vào việc giúp các em cải thiện những kiếp sống tương lai và đạt được niết bàn, mà vì lợi ích của đời sống hiện tại. Thậm chí trong vài trường đại học, đã có một vài chương trình giáo dục về việc phát triển tấm lòng nồng hậu và bi mẫn. Lòng bi mẫn không thiên vị này không chú trọng vào thái độ của người khác, mà chỉ đơn thuần vào việc họ đều là những con người. Tất cả chúng ta đều là một thành phần của sáu tỷ người trên hành tinh này, vì vậy, trên căn bản của yếu tố bình đẳng, mọi người đều xứng đáng với lòng bi mẫn của chúng ta.
Giải Trừ Vũ Khí Nội Tại và Ngoại Tại
Thế thì, để có được bình an nội tại và hòa bình thế giới, chúng ta cần có sự giải trừ quân bị bên trong lẫn bên ngoài. Điều này có nghĩa là ở phạm vi nội tại, ta phát triển lòng bi mẫn và dựa trên nền tảng ấy, cuối cùng, ta có thể giải trừ vũ khí ở mọi lãnh vực, ở tất cả các quốc gia, ở phạm vi ngoại tại. Điều này giống như có một lực lượng hợp nhất của Quân Đoàn Châu Âu Pháp – Đức thì thật là tốt đẹp. Nếu như ta có một lực lượng vũ trang hợp nhất cho toàn thể Liên Hiệp Âu châu, thì sẽ không có sự xung đột vũ trang giữa các thành viên nữa.
Một lần ở Brussels, có một cuộc họp của các nhà ngoại trưởng và tôi đã nói rằng trong tương lai, nếu trụ sở chính của Liên Hiệp Âu Châu được di chuyển xa hơn về phía Đông, ở một trong các nước Đông Âu, thí dụ như Ba Lan, thì sẽ có rất nhiều lợi ích. Dần dần, nó mở rộng để bao gồm cả nước Nga thì sẽ rất tốt, rồi cuối cùng thì nên di chuyển trụ sở chính của NATO đến Mạc Tư Khoa. Nếu điều này xảy ra, thì sẽ có hòa bình thật sự và không còn hiểm họa chiến tranh ở Âu châu nữa. Hiện nay, có một vài khó khăn giữa Nga và Georgia, nhưng chúng ta cần giữ sự hy vọng.
Trên cơ sở của một nền hòa bình mở rộng hơn, thì nền công nghiệp quân sự ở Pháp quốc chẳng hạn, cuối cùng có thể đóng cửa, và chúng ta có thể chuyển nền kinh tế sang các phương diện sản xuất nhiều hơn. Thay vì sản xuất xe thiết giáp, các nhà máy có thể được thay đổi để chế tạo xe ủi đất, thí dụ vậy!
Các quốc gia Phi châu cũng rất cần sự giúp đỡ của chúng ta. Khoảng cách giữa giàu và nghèo là một vấn nạn lớn, không chỉ trên bình diện toàn cầu, mà còn ở phạm vi quốc gia, khoảng cách giữa giàu và nghèo này thật vô cùng đáng sợ. Thí dụ như ở Pháp, có một sự tương phản lớn giữa người giàu và người nghèo. Thậm chí một số người còn phải đối diện với nạn đói. Nhưng tất cả chúng ta là con người và đều có những hy vọng, nhu cầu và khó khăn như nhau. Chúng ta cần quan tâm đến tất cả những điều này để phát triển hòa bình qua sự bình an nội tại.
http://www.berzinarchives.com/web/vi/archives/approaching_buddhism/world_today/achieving_peace_through_inner_peace.html